“Nhiều người giàu lên nhờ đất, nhưng cũng có không ít người nghèo đi vì đất, thậm chí bị đi tù cũng vì đất, mất cả tình nghĩa cha con, anh em vì đất” – Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã phải thốt lên như vậy khi khai mạc Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII, hôm 4/5.
Tại bài phát biểu hôm ấy, Tổng Bí thư đã đề cập nội dung “Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khoá XI về tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại” đầu tiên trong 4 nội dung thảo luận lớn của Hội nghị.
7 ngày sau (11/5), tại bài phát biểu bế mạc, “Vấn đề quản lý và sử dụng đất đai” tiếp tục được ông nêu lên trước hết trong 6 kết quả lớn mà Hội nghị đã thống nhất.
Hơn một tháng sau, ngày 16/6, thay mặt Ban Chấp hành Trung ương, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng ký ban hành Nghị quyết 18-NQ/TW về “Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và sử dụng đất, tạo động lực đưa nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao” (Viết tắt: Nghị quyết số 18). Nghị quyết về đất đai này cũng được đánh số trước hết trong số 4 Nghị quyết của Hội nghị Trung ương 5.
10 năm trước, trong thông cáo bế mạc Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, “Vấn đề đất đai” được nêu thứ 3 trong thứ tự 7 kết quả lớn của Hội nghị. Sau đó, Nghị quyết số 19-NQ/TW về “Tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại” (Viết tắt: Nghị quyết số 19) được ban hành.
Nghị quyết số 18 viết: “Sau gần 10 năm thực hiện Nghị quyết số 19-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI, chính sách, pháp luật về đất đai đã có nhiều đổi mới, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu thực tiễn, từng bước tạo hành lang pháp lý cho việc quản lý và sử dụng đất hợp lý, tiết kiệm và hiệu quả hơn”.
Nhưng cũng tại phần đánh giá (mục I. Tình hình), Nghị quyết dành phần nhiều hơn để đánh giá và phân tích về những hạn chế. Đảng đã nhận diện thẳng thắn: “Công tác quản lý và sử dụng đất còn nhiều hạn chế. Một số nội dung của Nghị quyết chưa được thể chế hoá hoặc thể chế hoá chậm, chưa đầy đủ; Luật Đất đai và một số văn bản pháp luật có liên quan còn chồng chéo, chưa thống nhất, đồng bộ. Trong một số trường hợp, chính sách, pháp luật về đất đai chưa theo kịp sự thay đổi nhanh chóng của thực tiễn”.
Nghiên cứu của Hiệp hội Bất động sản Việt Nam chỉ ra, đóng góp của thị trường bất động sản trong GDP giai đoạn 2019-2021 khoảng 14%. Thị trường bất động sản có khả năng lan tỏa đến trên 40 ngành quan trọng khác của nền kinh tế và trở thành nhịp cầu nối cho các thị trường khác, góp phần phát triển đồng bộ các loại thị trường.
Không quá lời khi nói rằng, các dự án bất động sản chính là minh chứng trực quan và sống động nhất cho sự thay đổi bộ mặt của các địa phương và nền kinh tế. Đi dọc miền đất nước, đâu đâu cũng thấy những dự án bất động sản mới khởi công (và cả những dự án bỏ dở).
Nhưng phía sau bộ mặt hào nhoáng ấy, lại có những góc khuất.
Tại một tọa đàm ít tuần trước, công bố của chuyên gia Lê Xuân Nghĩa đã khiến nhiều người giật mình: Tại Việt Nam, tính đúng theo công thức chuẩn của IMF vào thời điểm 4 năm trước, người dân cần tích luỹ 35 năm để mua được một căn hộ. Nhưng hiện tại, con số này đã ở mức... 57 năm.
“Sự phát triển của một địa phương hay sự giàu lên của một số nhóm xã hội này không thể phải trả giá bằng sự bần cùng của nhóm xã hội khác. Chừng nào chính sách đất đai còn tạo ra khoảng cách lớn giữa kẻ được và người mất, chừng đó sẽ vẫn luôn xuất hiện những căng thẳng, mâu thuẫn xã hội liên quan đến đất đai”, TS. Nguyễn Văn Đáng, nhà nghiên cứu Quản trị công và Chính sách (Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh) đã bình luận như vậy với VietTimes trong bài viết: Nghị quyết số 18, đất đai và Công bằng xã hội.
Thống kê của Ban Tiếp dân Trung ương cho thấy, chỉ trong vòng 3 năm qua, Ban này đã tiếp gần 100.000 lượt người tới khiếu kiện, với tổng số gần 24.500 vụ việc, trong đó hơn 70% các vụ việc liên quan tới đất đai, cá biệt năm 2021 đã chiếm tới 81%.
“Không phải ngẫu nhiên mà trong thời gian qua có tới hơn 70% số vụ tố cáo, khiếu nại thuộc về lĩnh vực đất đai”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đặt vấn đề.
Sự ra đời của Nghị quyết số 18 được kỳ vọng sẽ giúp giải quyết cơ bản những tồn tại, vướng mắc có liên quan đến quản lý và sử dụng đất; khắc phục cơ bản những hạn chế, bất cập của thị trường bất động sản; đảm bảo hài hòa lợi ích của người dân, nhà đầu tư và Nhà nước với người dân là trung tâm.
Trưởng Ban Kinh tế Trung ương Trần Tuấn Anh khẳng định, Nghị quyết số 18 là cơ sở chính trị quan trọng cho việc tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế, chính sách về đất đai đồng bộ phù hợp với thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là sửa đổi Luật Đất đai năm 2013 và các luật khác có liên quan, đảm bảo sự đồng bộ, thống nhất.
Ngay sau khi được ban hành, công tác chế hóa Nghị quyết số 18 đã được tiến hành khẩn trương và hướng thẳng tới trọng tâm, đó là sửa đổi Luật Đất đai 2013.
Theo đó, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã công bố dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi) và đang lấy ý kiến góp ý của các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan cho đến ngày 25/9, trước khi trình Chính phủ.
VietTimes đã có cuộc phỏng vấn PGS.TS Nguyễn Hồng Sơn – Phó Trưởng Ban Kinh tế Trung ương - để làm rõ những yêu cầu của Nghị quyết này đối với việc sửa đổi Luật đất đai năm 2013. Ông Sơn là Phó Trưởng Ban Chỉ đạo và Tổ trưởng Tổ Biên tập tổng kết Nghị quyết số 19 và dự thảo Nghị quyết số 18.
- PV VietTimes: Nghị quyết số 18 đặt ra những yêu cầu gì đối với sửa đổi Luật đất đai năm 2013, thưa ông?
PGS. TS Nguyễn Hồng Sơn: Nghị quyết số 18 đặt ra yêu cầu rộng hơn, đó là đổi mới, hoàn thiện thể chế, chính sách về quản lý và sử dụng đất phù hợp với thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong đó, trọng tâm là sửa đổi luật đất đai năm 2013 và các luật khác có liên quan, đảm bảo sự thống nhất, đồng bộ. Đây là yêu cầu xuyên suốt trong Nghị quyết và được thể hiện trong tất cả các phần của Nghị quyết, từ quan điểm, mục tiêu đến nhiệm vụ giải pháp, tổ chức thực hiện và ngay cả trong tiêu đề của Nghị quyết. Tựu chung lại thì có 3 yêu cầu lớn.
Thứ nhất, Nghị quyết đặt ra yêu cầu nâng cao vai trò của thị trường trong quản lý và sử dụng đất.
Chúng ta đều biết đất đai là tài nguyên hữu hạn, là nguồn lực rất quan trọng cho phát triển. Do đó, để có thể phát huy được cao nhất nguồn lực đất đai, để đất đai mang lại giá trị cao nhất, nguồn lực này cần được phân bổ cho những ngành, lĩnh vực sử dụng hiệu quả nhất, cho những người sử dụng hiệu quả nhất, qua đó thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Lý thuyết và thực tiễn đều cho thấy, thị trường là cơ chế hữu hiệu nhất để thực hiện điều này.
Vai trò của thị trường trong quản lý và sử dụng đất được nâng cao còn giúp tăng cường tính công khai, minh bạch của thị trường, qua đó thị trường sẽ hoạt động hiệu quả hơn và Nhà nước cũng sẽ có đầy đủ hơn các tín hiệu để quản lý và điều tiết thị trường hoạt động hiệu quả.
Thứ hai, Nghị quyết đặt ra yêu cầu nâng cao vai trò đại diện chủ sở hữu và năng lực quản lý của Nhà nước về đất đai; kiên quyết phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong lĩnh vực đất đai.
Đất đai không chỉ là tài nguyên hữu hạn, là nguồn lực quan trọng cho phát triển đất nước mà còn là lãnh thổ quốc gia, không gian sinh tồn của dân tộc. Do đó, đất đai không chỉ cần được quản lý và sử dụng hiệu quả mà còn cần được bảo vệ, được quản lý và sử dụng bền vững, đúng mục đích và tiết kiệm.
Nghị quyết nêu rõ đất đai thuộc sở hữu của toàn dân do Nhà nước là đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Do vậy, việc nâng cao vai trò đại diện chủ sở hữu và năng lực quản lý của Nhà nước về đất đai có ý nghĩa rất quan trọng, đảm bảo việc quản lý và sử dụng đất vì lợi ích chung của toàn dân và để nhân dân có thể tiếp cận, sử dụng đất công bằng, công khai, hiệu quả và bền vững.
Khi vai trò đại diện chủ sở hữu và năng lực quản lý của Nhà nước về đất đai nâng cao thì đất đai sẽ được quản lý và sử dụng một cách minh bạch, công khai, có trách nhiệm giải trình và quản lý của nhà nước sẽ hiệu lực, hiệu quả hơn; thị trường bất động sản sẽ được điều tiết để phát triển lành mạnh hơn. Đồng thời, tính kỷ luật, kỷ cương trong quản lý và sử dụng đất cũng được nâng cao hơn. Qua đó, giúp giảm thiểu tiêu cực, lãng phí, tham nhũng trong quản lý và sử dụng đất.
Thứ ba, Nghị quyết đặt ra yêu cầu đảm bảo sự hài hoà trong lợi ích giữa Nhà nước, nhà đầu tư và người dân, trong đó lấy người dân làm trung tâm, không để ai bị bỏ lại phía sau. Điều này, sẽ giúp giảm tình trạng khiếu nại, khiếu kiện, tranh chấp, tố cáo về đất đai; khắc phục tình trạng đất đai bị hoang hóa, sử dụng không đúng mục đích; đồng thời, sẽ góp phần đảm bảo tính xã hội chủ nghĩa trong quản lý và sử dụng đất. Qua đó, hiệu quả quản lý và sử dụng đất sẽ được nâng cao.
Như vậy, khi chúng ta sửa đổi Luật đất đai năm 2013 và các luật khác có liên quan, đảm bảo sự thống nhất, đồng bộ thì phải đáp ứng được 3 yêu cầu lớn kể trên. Đây cũng chính là yêu cầu phải xử lý tốt mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội trong quản lý và sử dụng đất.
- Ông đã chỉ ra 3 yêu cầu. Vậy cụ thể soi vào Nghị quyết 18, các yêu cầu cụ thể ấy được thể hiện ở chỗ nào? Đầu tiên là về nâng cao vai trò của thị trường, thưa ông!
Yêu cầu của Nghị quyết số 18 về nâng cao vai trò của thị trường trong quản lý và sử dụng đất được thể hiện qua những điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, Nghị quyết khẳng định đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước là đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Quyền sử dụng đất là một loại tài sản và hàng hóa đặc biệt nhưng không phải quyền sở hữu. Điều này sẽ giúp cho đất đai có thể vận hành được trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, Nghị quyết mở rộng quyền tiếp cận đất đai đối với người dân và doanh nghiệp.
Cụ thể là đưa ra định hướng mở rộng hạn mức và đối tượng được nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp; quy định việc giao và cho thuê đất chủ yếu được thực hiện thông qua hình thức đấu giá quyền sử dụng đất và đấu thầu dự án có sử dụng đất; bỏ khung giá đất và quy định có cơ chế, phương pháp xác định giá đất theo nguyên tắc thị trường; tiếp tục thực hiện cơ chế tự thỏa thuận giữa doanh nghiệp và người dân trong chuyển nhượng quyền sử dụng đất để thực hiện các dự án về đô thị, nhà ở thương mại; sớm xây dựng và hoàn thiện cơ chế, chính sách để các cá nhân, tổ chức, hộ gia đình có thể tham gia vào dự án đầu tư thông qua việc chuyển nhượng, cho thuê, góp vốn bằng quyền sử dụng đất; xây dựng ngân hàng cho thuê đất nông nghiệp;...
Nội dung nghị quyết mang tính bao trùm nhưng cũng lại rất cụ thể. Nếu đọc và phân tích kỹ ta sẽ thấy rất nhiều định hướng mới và đột phá. Chẳng hạn như yêu cầu hoàn thiện cơ chế xác định giá đất, mà nổi bật là định hướng: Bỏ khung giá đất.
Trước kia, Chính phủ quy định khung giá đất và khung giá đất được điều chỉnh 5 năm một lần. Trên cơ sở khung giá đất, các địa phương xây dựng bảng giá đất để các cá nhân, tổ chức thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với nhà nước. Còn giá bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất được xác định dựa trên giá đất cụ thể, tùy thuộc vào quy mô, giá trị của mảnh đất được xác định như thế nào. Rõ ràng là khi Chính phủ quy định khung giá đất, bảng giá đất lại theo khung giá đất đó nên nó không thay đổi kịp so với giá thị trường. Hệ quả là giá đất được xác định để bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất thường là thấp hơn so với giá thị trường, dẫn đến sự tồn tại của thị trường 2 giá. Đây là một trong những những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng khiếu nại, khiếu kiện gia tăng và nguy cơ tham nhũng, tiêu cực. Định hướng bỏ khung giá đất sẽ khắc phục được những hạn chế này.
Nghị quyết cũng đưa ra yêu cầu: “Đối với các dự án phát triển kinh tế - xã hội phù hợp với quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất, cần sớm xây dựng và hoàn thiện cơ chế, chính sách để tổ chức, hộ gia đình, cá nhân có quyền sử dụng đất tham gia với nhà đầu tư để thực hiện các dự án dưới hình thức chuyển nhượng, cho thuê, góp vốn bằng quyền sử dụng đất”. Định hướng này khi được thể chế hóa sẽ mở rộng quyền tiếp cận đất đai đối với doanh nghiệp. Hiển nhiên, nó sẽ góp phần nâng cao vai trò thị trường trong quản lý và sử dụng đất.
Hay định hướng “xây dựng quy định về ngân hàng cho thuê đất nông nghiệp” cũng là một điểm rất mới và đột phá.
Một trong những nguyên nhân khiến cho đất đai bị bỏ hoang đó là chúng ta có chính sách miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp. Ở rất nhiều địa phương, người nông dân sẵn sàng bỏ ruộng hoang hóa, nhưng vì không phải chịu thuế nên họ vẫn nắm giữ đất, họ cũng không có động lực phải trả hay khai thác. Định hướng cho phép người dân có thể tham gia với nhà đầu tư thông qua việc chuyển nhượng hoặc góp vốn quyền sử dụng đất nhưng có thể người dân vẫn sợ mất đất, hay sợ doanh nghiệp làm ăn thua lỗ dẫn đến mất đi kế sinh nhai.
Nhưng nếu bây giờ xuất hiện một ngân hàng cho thuê đất nông nghiệp thì người dân hoàn toàn có thể yên tâm cho ngân hàng thuê đất và khi đó đất đai sẽ được góp để cho doanh nghiệp thuê. Điều này còn giúp cho doanh nghiệp có thể đầu tư mở rộng sản xuất, ứng dụng được công nghệ cao trong sản xuất, qua đó làm tăng hiệu quả sử dụng đất.
- Vậy còn yêu cầu “nâng cao vai trò đại diện chủ sở hữu của Nhà nước và năng lực quản lý của Nhà nước về đất đai; kiên quyết phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong lĩnh vực đất đai”. Ở Nghị quyết số 18, nó được thể hiện như thế nào, thưa ông?
Theo tôi, yêu cầu này được thể hiện ở 7 điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, là đổi mới, nâng cao chất lượng công tác quy hoạch và sử dụng đất. Đặc biệt, Nghị quyết nêu rõ: “Nhà nước bảo đảm đủ nguồn lực để lập quy hoạch sử dụng đất và các quy hoạch ngành, lĩnh vực có sử dụng đất”. Vậy hàm ý đằng sau đó là gì?
Trên thực tế ta thấy, thời gian qua có hiện tượng khá phổ biến, là nhiều địa phương huy động nguồn lực xã hội hóa để thực hiện công tác quy hoạch. Cụ thể, họ nhận tài trợ quy hoạch từ các nhà đầu tư và doanh nghiệp.
Điều này, một mặt, góp phần giúp cho quy hoạch sát với yêu cầu của thị trường và khắc phục được việc thiếu kinh phí cho lập quy hoạch, nhất là ở những địa phương còn nhiều khó khăn. Mặt khác, việc nhận tài trợ quy hoạch từ nhà đầu tư và doanh nghiệp còn chứa đựng rủi ro lạm dụng và tiêu cực, nhất là khi các nhà đầu tư hoặc doanh nghiệp tài trợ “nắn” quy hoạch theo hướng có lợi cho họ. Với sự ra đời của Nghị quyết số 18, rủi ro này sẽ được ngăn chặn.
Việc Nhà nước đảm bảo đủ kinh phí để thực hiện quy hoạch sẽ giúp giảm thiểu được việc lạm dụng quy hoạch để trục lợi, nâng cao được hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước trong quản lý và sử dụng đất.
Thứ hai, Nghị quyết yêu cầu có chế tài đồng bộ, cụ thể để xử lý những trường hợp đã được Nhà nước giao đất, cho thuê đất nhưng không đưa đất và sử dụng hoặc chậm đưa đất vào sử dụng. Kiên quyết thu hồi đất của tổ chức, cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp sử dụng không đúng mục đích, nhất là tại các vị trí có lợi thế, có khả năng sinh lời cao, ngăn chặn thất thoát vốn tài sản nhà nước.
Thứ ba, Nghị quyết đưa ra yêu cầu về ứng dụng công nghệ hiện đại và chuyển đổi số trong quản lý nhà nước về đất đai, trọng tâm là xây dựng cơ sở dữ liệu và hệ thống thông tin về đất, tập trung, thống nhất và hiện đại.
Lưu ý, là việc thực hiện chuyển đổi số, xây dựng cơ sở dữ liệu đất đai quốc gia không chỉ về mặt số lượng, diện tích mà cả về mặt giá trị, lịch sử giao dịch.
Số hóa được dữ liệu thì ngồi ở bất kể đâu, ta cũng có thể theo dõi được sự thay đổi, bao gồm cả sự thay đổi về giá trị và sự chuyển dịch về đất đai giữa các bên liên quan. Tất cả sẽ trở nên minh bạch, cụ thể, trực quan! Điều này sẽ giúp Nhà nước thực hiện tốt hơn chức năng đại diện chủ sở hữu về đất đai thông qua việc cung cấp thông tin, báo cáo và thực hiện trách nhiệm giải trình. Đồng thời, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước cũng sẽ được nâng cao khi Nhà nước có đủ thông tin để ra các quyết định về quản lý.
Thứ tư, Nghị quyết yêu cầu tăng cường phân cấp, phân quyền trong quản lý nhà nước về đất đai gắn liền với điều kiện thực thi và kiểm soát, giám sát quá trình thực hiện.
Đây là điểm mới so với trước đây khi Nhà nước thực hiện việc phân cấp, phân quyền nhưng không đi kèm với cơ chế kiểm soát quyền lực nên dẫn đến nhiều hiện tượng tham nhũng, tiêu cực.
Thứ năm, Nghị quyết yêu cầu tập trung nguồn lực đầu tư cho công tác điều tra, đánh giá tài nguyên đất; thống kê, kiểm kê đất đai; giám sát sử dụng đất; bảo vệ, cải tạo và phục hóa đất.
Thứ sáu, Nghị quyết đưa ra các định hướng mới về đổi mới, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát của Đảng; thanh gia, giám sát, kiểm soát của Nhà nước; nâng cao vai trò của cơ quan tư pháp trong giải quyết các tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai.
Thứ bảy, Nghị quyết yêu cầu nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng và các bên có liên quan trong quản lý và sử dụng đất, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu.
- Ông vừa đề cập đến việc giải quyết các tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai. Thưa ông, tôi cho rằng nguồn cơn sâu xa của phần lớn các tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai là do lợi ích của các bên, đặc biệt là của người bị thu hồi đất, chưa được đảm bảo. Nó ứng với yêu cầu thứ 3 mà ông đề cập lúc đầu: Đảm bảo sự hài hoà trong lợi ích giữa nhà nước, nhà đầu tư và người dân.
Nghị quyết số 18 đã nêu rất rõ yêu cầu này, đó là đảm bảo sự hài hoà trong lợi ích giữa người dân, nhà đầu tư và Nhà nước trong quản lý sử dụng đất, trong đó người dân là trung tâm, không để ai bị bỏ lại phía sau. Điều này được thể hiện trên nhiều mặt.
Đầu tiên, trong việc thu hồi đất, Nghị quyết quy định trong trường hợp Nhà nước thu hồi đất mà phải tái định cư thì phải thực hiện tái định cư trước khi thu hồi đất. Trên thực tế đã xảy ra nhiều trường hợp Nhà nước thu hồi đất khi chưa đảm bảo được việc tái định cư, dẫn đến tình trạng người dân mất đi sinh kế, đời sống thấp hơn so với trước nên mới dẫn đến việc khiếu nại, khiếu kiện.
Mà tái định cư thôi chưa đủ, phải đảm bảo được sinh kế cho người dân, tức là hỗ trợ người dân trong việc đào tạo nghề, tạo việc làm, tổ chức lại sản xuất.
Thu hồi đất mà đảm bảo được lợi ích cho người dân bằng hoặc cao hơn so với nơi ở cũ thì khi đó người dân sẽ cảm thấy không bị thiệt thòi. Và điều này chắc chắn sẽ giảm được khiếu nại, khiếu kiện và những tiêu cực khác.
Để hạn chế đầu cơ, lãng phí đất đai, Nghị quyết số 18 đề ra định hướng: “Quy định mức thuế cao hơn đối với người sử dụng nhiều diện tích đất, nhiều nhà ở, đầu cơ đất, chậm sử dụng đất, bỏ đất hoang”. Nhưng Nghị quyết cũng đặt ra yêu cầu: “Có chính sách ưu đãi thuế, tiền sử dụng đất, tiền thuê đất phù hợp với lĩnh vực, địa bàn ưu đãi đầu tư; đối với hộ nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số, gia đình người có công với cách mạng; những địa phương được quy hoạch sản xuất nhằm bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, bảo vệ các loại rừng, nhất là rừng phòng hộ, rừng đặc dụng…”.
Như vậy, đối với những người sử dụng nhiều nhà đất và đầu cơ đất đai thì đánh thuế cao hơn, đối với những người rơi vào tình trạng yếu thế thì có những chính sách đảm bảo cho họ có cơ hội tiếp cận về đất đai tốt hơn. Chính tất cả những điều đó nhằm đảm bảo sự hài hòa trong lợi ích giữa người dân, Nhà nước, doanh nghiệp và không để ai bị bỏ lại phía sau. Điều này cũng sẽ làm cho đất đai được sử dụng tiết kiệm và hiệu quả hơn.
Bên cạnh quy định về sớm xây dựng và hoàn thiện cơ chế, chính sách để các cá nhân, tổ chức, hộ gia đình có thể tham gia vào dự án đầu tư thông qua việc chuyển nhượng, cho thuê, góp vốn bằng quyền sử dụng đất như đã trình bày ở trên, Nghị quyết số 18 còn đưa ra yêu cầu có quy định cụ thể việc khai thác hiệu quả quỹ đất vùng phụ cận các công trình kết cấu hạ tầng và chính sách ưu tiên cho người có đất ở bị thu hồi được giao đất hoặc mua nhà trên diện tích đất đã thu hồi mở rộng theo quy định của pháp luật; quy định về xây dựng cơ chế góp quyền sử dụng đất, điều chỉnh lại đất đai đối với các dự án phát triển, chỉnh trang đô thị và khu dân cư nông thôn.
Rõ ràng là với những yêu cầu như kể trên lợi ích của người dân, nhà đầu tư và Nhà nước sẽ được hài hoà, trong đó người dân là trung tâm và không để ai bị bỏ lại phía sau.
- Như ông chia sẻ, có thể thấy nội dung và tinh thần của Nghị quyết số 18 là rất toàn diện, bao quát nhưng cũng lại rất sâu sắc, cụ thể. Sự ra đời của Nghị quyết số 18 thực tế đang đem đến rất nhiều niềm tin và kỳ vọng. Tuy nhiên, để Nghị quyết thực sự đi vào cuộc sống và phát huy hiệu quả vẫn còn một quá trình. Bản thân Trung ương, khi tổng kết về 10 năm thực hiện Nghị quyết số 19 cũng thẳng thắn đánh giá: “Một số nội dung của Nghị quyết chưa được thể chế hoá hoặc thể chế hoá chậm, chưa đầy đủ”. Tôi lấy ví dụ như định hướng đánh thuế bất động sản, nó đã được nêu ra từ Nghị quyết 19, tức là 10 năm trước…
Đúng là 10 năm trước, tại Nghị quyết số 19, Trung ương đã định hướng: “Nghiên cứu ban hành thuế bất động sản (đối tượng chịu thuế phải bao gồm cả đất, nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất). Người sử dụng nhiều diện tích đất, nhiều nhà ở, đất bỏ hoang, đất đã giao, đã cho thuê, nhưng chậm đưa vào sử dụng thì phải chịu mức thuế cao hơn”.
Đến Nghị quyết số 18 này, chúng ta có thể thấy một sự điều chỉnh trong định hướng, thay vì yêu cầu áp thuế tài sản (cả đất và tài sản gắn liền với đất), Nghị quyết đã chỉ rõ là áp thuế sử dụng đất.
Tuy nhiên, phải nói rằng thuế là vấn đề rất phức tạp, nhạy cảm, liên quan đến mọi người dân, tổ chức và hộ gia đình, do đó cần phải được nghiên cứu kỹ lưỡng. Nếu việc thể chế hoá không phù hợp thì sẽ không đạt được các mục tiêu trên, không giải quyết được vấn đề của thị trường, thậm chí không ngăn được đầu cơ, lãng phí đất đai.
Nghị quyết số 18 đặt ra yêu cầu không phải ngay lập tức mà là rà soát chính sách, pháp luật về thuế sử dụng đất nông nghiệp và đất phi nông nghiệp, xây dựng chính sách, pháp luật về thuế sử dụng đất theo thông lệ quốc tế nhưng phải phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của Việt Nam (trình độ phát triển và điều kiện cụ thể) và có một lộ trình thích hợp.
- Ông hình dung Nghị quyết này đi vào cuộc sống thế nào?
Tôi có niềm tin rất lớn rằng Nghị quyết số 18 sẽ sớm đi vào cuộc sống và phát huy hiệu quả tích cực.
Theo đó, công tác thể chế hoá các quan điểm chỉ đạo, mục tiêu và định hướng của Nghị quyết sẽ tạo ra hành lang pháp lý đồng bộ, chặt chẽ, bảo đảm cho Nhà nước có đầy đủ công cụ để thực hiện quyền và nghĩa vụ đại diện chủ sở hữu, chủ thể sử dụng đất; hạn chế được tiêu cực, lạm dụng. Vai trò của thị trường trong quản lý và sử dụng đất được nâng lên sẽ giúp cho đất đai được phân bổ hợp lý và hiệu quả hơn.
Việc bảo đảm được hài hoà lợi ích của của người dân, nhà đầu tư và Nhà nước trong quản lý và sử dụng đất sẽ giúp giảm thiểu được lãng phí, tiêu cực; giảm tranh chấp, khiếu nại, khiếu kiện có liên quan đến đất đai; đất đai sẽ được sử dụng hiệu quả và bền vững hơn, qua đó góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; bảo đảm quốc phòng, an ninh; bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu.
Sự ra đời của Nghị quyết số 18 – như chính tiêu đề của nó, với sự quán triệt và thống nhất nhận thức cao trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, chắc chắn sẽ góp phần to lớn trong việc tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và sử dụng đất, tạo động lực đưa nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao.
- Trân trọng cảm ơn ông!