Những hành động bồi đắp, nạo vét và tôn tạo các rạn san hô và đảo đá ngầm của Trung Quốc trên biển Đông đã gây lên sự phản đối mạnh mẽ trên thế giới. Báo The National Interest đã có bài viết phân tích mục đích và mưu đồ của Bắc Kinh của Dean Cheng nhà nghiên cứu cao cấp của Trung tâm Nghiên cứu Châu Á The Heritage Foundation.
Báo cáo thường niên của Lầu Năm Góc về sự phát triển năng lực quân sự của Trung Quốc đã nhận xét rằng: trong năm qua, Trung Quốc đã bồi đắp tại năm rạn san hô chiếm đóng phi pháp ở Biển Đông. Trung Quốc đang nỗ lực đầu tư cơ sở hạ tầng kỹ thuật trên bốn trong số những hòn đảo nhân tạo. Ít nhất hai đảo nhân tạo – Đảo Đá Chữ Thâp (Fiery Chữ Cross Reef và đảo Đá Xu bi (Subi Reef) - đang được Trung Quốc tiến hành xây dựng các đường băng dành cho máy bay quân sự.
Bắc Kinh ngang ngược tuyên bố những hành động xâm hại nguyên trạng biển này là "hợp pháp và chính đáng", vì đang tiến hành trên “lãnh thổ Trung Quốc”. Ngoại trưởng Vương Nghị đã phát biểu trong Đại hội Nhân dân toàn quốc vào đầu năm nay, Trung Quốc đang tiến hành xây dựng trên "những đảo chìm và rạn san hô của mình."
Một vấn đề rất quan trọng, Trung Quốc khẳng định “đặc trưng” của những hành động này là "cần thiết." Khẳng định đó là khả năng bắt nguồn từ, một phần nào đó trong thực tế là không đảo nào trong số các đảo chìm và rạn san hô mà Trung Quốc xâm chiếm ở Trường Sa có đường băng, nhưng hầu hết tất cả các nước khác, sở hữu những đảo trong quần đảo, có đường băng, như các đường băng của Đài Loan trên đảo Ba Bình (Itu Aba), của Malaysia trên Đảo Đá Hoa Lau Swallow Reef ( Kuala Lumpur mở rộng), của Việt Nam Song Tử Tây (Southwest Cay), của Philippines trên đảo Thị Tứ (Pagasa).
Một yếu tố quan trọng nữa là tương lai cho sự phát triển của đảo Hải Nam- khu vực xây dựng sân bay vũ trụ mới nhất của Trung Quốc, căn cứ không quân với sân bay quân sự, quân cảng chủ chốt cho hạm đội Nam Hải và quân cảng cho hạm đội tàu ngầm chiến lược của Bắc Kinh. Đảo Hải Nam đang phát triển thành một trung tâm chiến lược quan trọng, vì vậy Bắc Kinh mong muốn tạo ra một "vùng đệm" ở Biển Đông. Hơn nữa, khu vực này chứa tài nguyên khoáng sản biển có giá trị kinh tế lớn, trong đó có ngư trường phong phú và tiềm năng khai thác nguồn năng lượng tự nhiên.
Nhưng quyết định của Bắc Kinh xây dựng các đảo nhân tạo (vùng lãnh thổ có thể sinh sống), nơi trước đây chỉ có đá ngầm (tính năng tự nhiên không thể cư trú do không phá vỡ bề mặt) và các rạn san hô (tính năng tự nhiên ngập nước không phá vỡ bề mặt), đây chính là nỗ lực nhân tạo nhằm thay đổi các yếu tố tự nhiên trên mặt đất – mặt nước (và trong nước). Như vậy, những hành động này đang thách thứ luật pháp quốc tế. Đặc biệt, đó là những cố gắng phi tự nhiên để tạo ra các nhân tố mới (quần đảo nhân tạo) mà theo dự án này sẽ có cả hai vùng lãnh hải (mười hai dặm giới hạn chủ quyền) và vùng đặc quyền kinh tế (EEZ) rộng 200 hải lý. Các đảo đá mở rộng chỉ có thể có mười hai hải lý lãnh hải, rạn san hô ngầm không lãnh hải.
Những hành động thay đổi nguyên trạng này, hơn thế nữa, đang được thực hiện trong những nỗ lực trường kỳ của Bắc Kinh nhằm thay đổi bản chất của các vùng EEZ trên vùng biển quốc tế mà nhà nước nào sở hữu nó sẽ có ưu thế khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên, về cơ bản sẽ sở hữu vùng lãnh hải mà các quốc gia khác có thể lại qua vùng nước đó một cách tự do (có nghĩa là sở hữu luôn đường vận tải huyết mạch của thế giới).
Trung Quốc đang cố gắng xác lập lập luận của mình về vấn đề này thông qua cả hai cuộc chiến pháp lý và chiến lược ngăn cản thực tế, chẳng hạn như sự va chạm xung đột với tàu USNS Impeccable và USNS Victorious (một trong số nhiều trường hợp) trong năm 2009. Trong tương lai gần, Trung Quốc đang đưa ra một thách thức cơ bản làm thay đổi định nghĩa về bản chất tự nhiên những tính chất của đảo trên biển và quyền tự do hàng hải.
Để chống lại những cố gắng vẽ lại chủ quyền của Trung Quốc, Washington chắc chắn sẽ phải xem xét những phương pháp mới nhằm đối phó với các thách thức từ phía Bắc Kinh. Các giải pháp mới nhất được đưa ra bao gồm đưa các máy bay bay trên không phận của đảo nhân tạo, và đưa tàu Hải quân xâm nhập vào khu vực12 hải lý của các rạn san hô, nhấn mạnh rằng không có vùng lãnh hải nào kéo dài từ những hòn đảo nhân tạo. Hiện nay, tàu USS Fort Worth, chiến hạm tác chiến ven bờ, đã cơ động vào vùng biển xung quanh quần đảo Trường Sa; Trung Quốc cũng đáp trả bằng cách theo dõi tàu Mỹ với một khu trục hạng nhẹ. Thông điệp của Mỹ rất rõ ràng: Trung Quốc không phải là sức mạnh tuyệt đối và cũng không có quyền đơn phương làm thay đổi hiện trạng Biển Đông hoặc viết lại luật pháp quốc tế và các hiệp ước (hay thay đổi bản đồ địa lý).
Cách tiếp cận vấn đề của Mỹ không phải là mới. Chiến hạm hải quân Mỹ từ lâu đã tiến hành các sứ mệnh duy trì và củng cố tự do hàng hải và không chỉ chống lại Trung Quốc. Các hạm tàu của Hải quân Mỹ, ví dụ, đã thực hiện những hoạt động nhằm "khẳng định" tự do hàng hải trong vùng biển chủ quyền của Philippines và Malaysia. Năm 1988, các chiến hạm Mỹ thực hiện quyền đi vào vùng lãnh hải của Liên Xô tại Biển Đen. Thẩm phán của Hải quân Advocate đã ban hành tài liệu " Maritime Claims Reference Manual ", một văn bản hướng dẫn để giải quyết các khiếu nại hàng hải khác nhau của các quốc gia ven biển, nhằm hỗ trợ miễn phí cho chương trình định vị và dẫn đường hàng hải.
Cũng không thể nói Washington đã thay đổi lập trường của Mỹ trong các vấn đề liên quan đến tranh chấp chủ quyền trong khu vực Đông Nam Á. Mỹ luôn khẳng định không đứng về bất cứ bên nào liên quan đến các tuyên bố chủ quyền của các bên trên Biển Đông.Hơn thế nữa, Ngoại trưởng Hillary Clinton tuyên bố tại Diễn đàn khu vực ASEAN năm 2010: Mỹ ủng hộ một giải pháp hòa bình cho các tranh chấp lãnh thổ khác nhau, căn cứ vào những yêu cầu đối với không gian biển "có nguồn gốc hoàn toàn hợp pháp từ các chứng minh chủ quyền và những tính chất cơ bản của đảo trên biển."
Điều mới hơn trong những hành động của Mỹ? Tất nhiên đó chỉ là vùng nước cụ thể. Các xung đột đối đầu trước đây giữa Trung Quốc và Mỹ có khuynh hướng ở vùng nước phía Bắc Biển Đông. Ví dụ như các sự cố liên quan đến tàu USNS Impeccable và USS Cowpens, tất cả đều nằm trong khoảng 200 hải lý EEZ của đảo Hải Nam. Quần đảo Trường Sa, ngược lại, có khoảng cách hơn 500 dặm tính từ đảo Hải Nam và bờ biển Trung Quốc. Đó là huyết mạch hàng hải thế giới với trị giá 5,3 nghìn tỷ USD thương mại đi qua các tuyến đường vận tải trên Biển Đông, xung đột trên vùng nước này sẽ đặt lợi ích hàng hải quốc tế đối mặt với nguy cơ tổn thất rất cao.
Tuy nhiên, các lãnh đạo Trung Quốc rất khó có khả năng lùi bước. Một phần do họ đã tạo cho người dân đại lục một niềm tin rằng Biển Đông từ lâu đã là lãnh thổ Trung Quốc. Niềm tin ngây thơ này không biện minh cho hành động của nhà cầm quyền Bắc Kinh, nhưng đó là lời giải thích tại sao người dân Trung Quốc thấy việc bồi đắp đảo chìm như là hành động mang tình phòng thủ, chứ không phải là hành động khai hoang mở đất tự phát.
Tương tự như vậy, các lãnh đạo Trung Quốc đã tự tạo cho mình niềm tin rằng:Trung Quốc phải được đánh giá theo một bộ tiêu chuẩn khác. Sau tất cả, các bên tranh chấp khác đã khoan giếng dầu, khai hoang các vùng lãnh thổ, xây dựng đường băng quân dân sự (mặc dù không một ai làm như vậy trên quy mô khủng khiếp mà Bắc Kinh tiến hành). Trớ trêu thay, Bắc Kinh chỉ hợp pháp hóa được sự đối đầu trong cư xử, vì Trung Quốc tự tin cho rằng “thiên triều” không cần phải tuân thủ các tiêu chuẩn tương tự như các nước khác. Như Bộ trưởng Ngoại giao Dương Khiết Trì đã đầy kênh kiệu nhấn mạnh trong lời đáp trả nhận xét của Ngoại trưởng Hillary Clinton năm 2010, "Trung Quốc là một nước lớn và các nước khác là nước nhỏ, đó là một thực tế." Gần đây, Trung Quốc tự coi như mình bị thách thức bởi nước láng giềng tiểu bang mà dường như chính phủ nước đó không biết vị trí của mình.
Từ quan điểm của Bắc Kinh, Mỹ là nguyên nhân sự thể hiện thái độ kiêu ngạo và cứng rắn của láng giềng Trung Quốc. Trong chuyến viếng thăm chính thức Mỹ vào năm ngoái, Tướng Phòng Phong Huy, Tổng tham mưu trưởng các lực lượng vũ trang Trung Quốc nói: các quốc gia trong khu vực ở Biển Đông có những hành vi khiêu khích vì "Hoa Kỳ đang áp dụng chiến lược tái cân bằng châu Á-Thái Bình Dương." Mặc dù ông Phòng không công khai cáo buộc Mỹ xúi giục gây rắc rối, ông liên tục lập luận rằng các hành động của Mỹ đã mở cửa cho sự gia tăng căng thẳng trong khu vực. Quan điểm này chắc chắn sẽ được người Trung Quốc tái khẳng định nhiều lần nữa trong tương lai.
Chính lý do này, điều cần thiết là Mỹ phải hành động không chỉ chống lại những cố gắng của Trung Quốc nhằm xóa bỏ luật pháp quốc tế ở Biển Đông, mà cần phải làm như vậy với sự hỗ trợ của các quốc gia khác trong khu vực. Washington phải liên kết phối hợp những nỗ lực của mình để các quốc gia địa phương không cảm thấy bị bất ngờ khi Bắc Kinh có phản ứng đáp trả - vì đó là điều chắc chắn - hoặc tệ hơn, xem Mỹ như là một đối tượng bằng cách nào đó phải chịu trách nhiệm về sự leo thang căng thẳng biển Đông.
Washington cần nhấn mạnh rằng, không phải Mỹ là nước đã quân sự hóa các vấn đề tranh chấp. Việc sử dụng các tàu hải quân có thể Trung Quốc sẽ tuyên truyền rằng Mỹ thúc đẩy leo thang xung đột bằng cách triển khai các tàu "vỏ xám", khi Trung Quốc chủ yếu dựa vào lực lượng tàu thực thi pháp luật dân sự và tàu cảnh sát biển ("vỏ trắng") để khẳng định chủ quyền. Rất ít các nước láng giềng của Trung Quốc quan tâm nhiều đến việc dịch chuyển xung đột địa chính trị vào lĩnh vực quân sự, đặc biệt là khi Trung Quốc đã mở rộng đáng kể và hiện đại hóa lực lượng các hạm đội của mình. Thật vậy, có thể sẽ là thích hợp hơn với Mỹ khi triển khai lực lượng tàu cảnh sát biển để bước đầu thách thức những tuyên bố hiếu chiến của Trung Quốc.
Các nhà bình luận Trung Quốc hiện đang công khai thảo luận về những phương án phối kết hợp các yếu tố quân sự vào các nỗ lực cải tạo, bồi vét đảo nhân tạo của họ. Như hãng tin nhà nước Tân Hoa Xã Trung Quốc chính thức tuyên bố , "vì lợi ích bảo vệ chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, Trung Quốc không cần phải tự vệ ... Các cơ sở căn cứ trên các đảo và đá ngầm, thậm chí mang tính chất quân sự, là hợp lý và chính đáng đối với Trung Quốc khi sử dụng các đảo nhân tạo với mục đích quốc phòng. "phản ứng của Mỹ, do đó, là không liên quan, không hơn gì sự leo thang.
Một thông điệp trọng tâm cần được Mỹ truyển tải tới Trung Quốc là: Washington không thay đổi quan điểm liên quan đến các tuyên bố cụ thể về chủ quyền. Trong khuôn khổ các yêu cầu khác nhau vẫn cần phải tập trung giải quyết hòa bình các tranh chấp chồng lấn chủ quyền, Washington không nên đứng về phía nào. Đồng thời, mặc dù vậy, Mỹ cũng nên cảnh báo không sử dụng vũ lực hay các thủ thuật vật chất, chẳng hạn như xây dựng đảo nhân tạo. Điều đó sẽ dẫn đến việc thay đổi tình trạng hiện tại và tạo ra một hiện trạng mới, khiến vòng xoáy xung đột tiếp tục leo thang căng thẳng.
Cuối cùng, tương tự như với "những người màu xanh" ở Ukraine, các hành động của Trung Quốc ở Biển Đông là dấu hiệu cho thấy các cuộc xung đột và tranh chấp trong tương lai có khả năng được bổ xung một liều lớn các biện pháp tiếp cận phi quy ước. Các hành động của Trung Quốc cho thấy họ đang triển khai rộng rãi hơn cuộc chiến xâm đoạt chủ quyền với cách tiến hành "chiến tranh chính trị", kết hợp với làm rõ nét hơn cuộc chiến trên “ba mặt trận” bao gồm chiến tranh pháp lý, chiến tranh công luận (báo chí), chiến tranh tâm lý. Những động thái của Trung Quốc buộc các nhà hoạch định chiến lược và các nhà ngoại giao Mỹ phải suy nghĩ nhanh chóng các giải pháp đối phó với cách tiến hành cuộc chiến xâm đoạt chủ quyền, cũng như làm thế nào để thực hiện các cam kết của chính nước Mỹ.
Theo: QPAN