Việt Nam có khoảng 4.000 cơ sở sản xuất TPCN, TPBVSK, nhưng chưa tới 10% đạt chuẩn GMP

VietTimes – Thông tin này được PGS.TS. Nguyễn Thanh Phong, Cục trưởng Cục ATTP, Bộ Y tế cho biết.
Nghị định số 15/2018/NĐ-CP sẽ đóng vai trò nòng cốt ngăn chặn các sản phẩm thực phẩm chức năng kém chất lượng như này. Ảnh: Hoàng Hoan
Nghị định số 15/2018/NĐ-CP sẽ đóng vai trò nòng cốt ngăn chặn các sản phẩm thực phẩm chức năng kém chất lượng như này. Ảnh: Hoàng Hoan

Theo, PGS.TS. Nguyễn Thanh Phong, nhằm quản lý chặt chẽ hơn các điều kiện về An toàn thực phẩm, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 15/2018/NĐ-CP ngày 2/2/2018, hướng dẫn chi tiết thi hành Luật ATTP thay thế cho Nghị định 38 trước đây.

Cụ thể, trước đây, các cơ sở sản xuất TPCN, TPBVSK chưa có quy định riêng về tiêu chuẩn sản xuất. Mà, sử dụng chung các quy định điều kiện sản xuất với tất cả các cơ sở sản xuất thực phẩm nói chung.

Thực tế qua kiểm tra, rất nhiều doanh nghiệp hiện đã đạt được tiêu chuẩn GMP nhưng cũng còn rất nhiều doanh nghiệp chưa đạt tiêu chuẩn này.

Do đó, nếu không tiến hành chuẩn hóa nhanh các cơ sở sản xuất TPCN, TPBVSK thì sẽ gây mất bình đẳng trong sản xuất kinh doanh giữa cơ sở nỗ lực đạt chuẩn GMP, phải đầu tư rất lớn với các cơ sở chưa đạt (đôi khi chỉ thuê một căn hộ, một nhà xưởng lụp xụp, trang bị một vài thiết bị đóng gói... ).

Quan trọng nhất sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của người tiêu dùng khi các sản phẩm không đạt chất lượng vẫn được bán ra thị trường - PGS.TS. Nguyễn Thanh Phong.

Theo đó, nội dung nghị định 15/2018/NĐ-CP quy định, từ ngày 1/7/2019, các cơ sở sản xuất thực phẩm chức năng (TPCN), thực phẩm bảo vệ sức khỏe (TPBVSK) phải đạt tiêu chuẩn GMP.

PGS.TS. Nguyễn Thanh Phong khẳng định, nghị định 15/2018/NĐ-CP sẽ đóng vai trò nòng cốt trong việc nâng cao hiệu quả quản lý sản xuất, kinh doanh TPCN và TPBVSK. Đây là hảng mảng kinh doanh có nhiều tổn tại, bất cập nhiều năm qua, và gây không ít thiệt hại đối với người tiêu dùng, đồng thời làm các cơ quan quản lý rất lúng túng trong thực hiện nhiệm vụ.

Theo PGS.TS. Nguyễn Thanh Phong, Việt Nam hiện có khoảng 4.000 cơ sở sản xuất TPCN, TPBVSK. Tuy nhiên, chưa tới 10% trong số đó, tức là chỉ có khoảng 200 - 300 cơ sở sản xuất đủ điều kiện đạt chuẩn GMP.

"Với những cơ sở này, theo lộ trình thực hiện GMP đã được đề ra, nếu sau 1/7/2019 mà vẫn không đạt tiêu chuẩn GMP, không được cấp chứng nhận GMP thì sẽ không được phép tiếp tục sản xuất" - Cục trưởng Cục ATTP nhấn mạnh nội dung quan trọng đầu tiên của nghị định 15/2018/NĐ-CP

Đồng thời, siết chặt quản lý đối với các cơ sở sản xuất theo tiêu chuẩn GMP, thì những cơ sở không đủ điều kiện sản xuất sẽ phải đóng cửa.

Qua đó, sẽ ngăn chặn được những sản phẩm TPBVSK không đạt chất lượng ngay từ khâu sản xuất. Nhấn mạnh vào mục tiêu quản lý, PGS.TS. Nguyễn Thanh Phong tin tưởng việc áp dụng tiêu chuẩn GMP không tạo nguy cơ thiếu TPCN, mà sẽ đảm bảo có đủ thực phẩm chức năng tốt, đảm bảo chất lượng.

GMP (Good Manufacturing Practices) là hướng dẫn thực hành sản xuất tốt, áp dụng đối với cơ sở sản xuất, chế biến thực phẩm, dược phẩm nhằm kiểm soát các yếu tố ảnh hưởng tới quá trình hình thành chất lượng sản phẩm từ khâu thiết kế, xây lắp nhà xưởng, thiết bị, dụng cụ chế biến; điều kiện phục vụ, chuẩn bị chế biến đến quá trình chế biến; bao gói, bảo quản và con người điều khiển các hoạt động trong suốt quá trình gia công, chế biến. Nó đề cập đến mọi khía cạnh của quá trình sản xuất và kiểm soát chất lượng.
Theo đó, nhà xưởng và phương tiện chế biến được thiết kế, xây dựng phù hợp với trình tự của dây chuyền công nghệ chế biến, phân thành các khu an toàn như: tập kết nguyên liệu, chế biến, bao gói, bảo quản... Quy trình này giúp bảo đảm không lây nhiễm chéo lẫn nhau giữa nguyên liệu, bán thành phẩm, thành phẩm; giữa thực phẩm với các vật liệu bao bì, hóa chất tẩy rửa hoặc phế liệu.
Kiểm soát vệ sinh nhà xưởng: Nghĩa là nhà xưởng, thiết bị, dụng cụ và các phương tiện vật chất khác luôn đạt vệ sinh ở chuẩn cho phép. Ngoài ra, phương tiện vệ sinh, hệ thống cấp - thoát nước, các bề mặt tiếp xúc với sản phẩm, các phụ phẩm, chất thải, dụng cụ chứa đựng, đồ dùng cá nhân phải luôn ở tình trạng đạt tiêu chuẩn vệ sinh và hoạt động tốt.
Kiểm soát quá trình chế biến: Nhà sản xuất có biện pháp kiểm soát chất lượng với nguyên liệu, quá trình chế biến; theo dõi, giám sát hoạt động vệ sinh; thực hiện phòng ngừa sản phẩm có thể nhiễm bẩn; thử nghiệm các chỉ tiêu vi sinh, hóa học, tạp chất ở khâu cần thiết để xác định nguy cơ lây nhiễm.
Yêu cầu về sức khỏe người lao động: Nhà sản xuất có chế độ khám sức khỏe thường xuyên cho người lao động để phát hiện, điều trị và cách ly những người mắc bệnh truyền nhiễm, tránh lây lan. Những người tiếp xúc trực tiếp với sản phẩm phải thực hiện nghiêm ngặt các quy định vệ sinh.
Kiểm soát khâu bảo quản và phân phối trong vận chuyển, bảo quản thành phẩm, bảo đảm tránh nhiễm bẩn bởi các tác nhân lý, hóa, vi sinh... không làm phân hủy sản phẩm.