VEPR: Tăng trưởng GDP sẽ vượt 6,8% trong năm 2018, cẩn trọng với áp lực lạm phát

VietTimes – Dựa trên kết quả tăng trưởng GDP tích cực Quý 3/2018, nhóm nghiên cứu Kinh tế vĩ mô của VEPR cho rằng mục tiêu tăng trưởng 6,5 – 6,7% của năm 2018 mà Quốc hội đề ra hầu như chắc chắn thực hiện được. Bên cạnh đó, nhóm nghiên cứu bày tỏ lo ngại về lạm phát trong năm 2019 và các năm sau.
Tọa đàm công bố Báo cáo Kinh tế Vĩ mô Quý III/2018 (Ảnh: P.D)
Tọa đàm công bố Báo cáo Kinh tế Vĩ mô Quý III/2018 (Ảnh: P.D)

Sáng ngày 10/10/2018, Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) đã công bố Báo cáo Kinh tế vĩ mô Quý III/2018 cùng với sự tham gia của nhiều chuyên gia kinh tế.

Báo cáo của VEPR cho biết mức tăng trưởng 6,88% của kinh tế Việt Nam trong Quý 3/2018 đã xua tan các nhận định về tính giảm dần của tăng trưởng các quý trong năm 2018. Tính chung 9 tháng đầu năm, GDP ước tăng 6,98%, mức tăng 9 tháng cao nhất từ năm 2011.

Trong đó, ngành được coi là động lực chính của tăng trưởng – công nghiệp chế biến, chế tạo - tiếp tục tăng trưởng cao 12,9%. Tuy nhiên, giá trị gia tăng tạo ra trong ngành này chủ yếu tới từ khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Điều này cho thấy sự phụ thuộc ngày càng nhiều của tăng trưởng kinh tế Việt Nam vào khu vực vốn đầu tư nước ngoài.

Với mức tăng trưởng tích cực 6,88% của Quý 3, nhóm nghiên cứu Kinh tế vĩ mô của VEPR cho rằng mục tiêu tăng trưởng 6,5-6,7% của năm 2018 do Quốc hội đề ra hầu như chắc chắn sẽ thực hiện được.

Nhiều khả năng kinh tế Việt Nam sẽ tăng trưởng hơn 6,8% trong năm nay. Tuy nhiên, trong bối cảnh chiến tranh thương mại và chủ nghĩa bảo hộ đang diễn ra, tương lai của nền kinh tế Việt Nam còn rất bất định trước các cú sốc từ thị trường thế giới.

Rủi ro lạm phát tăng từ điều chỉnh thuế môi trường 

Bên cạnh chỉ số tăng trưởng kinh tế, báo cáo của VEPR cũng nhận định lạm phát Quý 3/2018 vẫn còn ở mức cao, chủ yếu đến từ việc giá thực phẩm tiếp tục phục hồi mạnh và sự điều chỉnh tăng giá xăng dầu liên tục. VEPR dự báo chỉ tiêu lạm phát bình quân dưới 4% sẽ đạt được trong Quý 4/2018 nếu không có cú sốc lớn nào về giá năng lượng.

Về mặt dài hạn, VEPR bày tỏ lo ngại về diễn biến của tình hình giá năng lượng trên thế giới vẫn ở mức cao và việc nâng kịch trần thuế bảo vệ môi trường lên xăng dầu (từ 3.000 lên 4.000 đồng/lít đối với mặt hàng xăng) kể từ 1/1/2019 sẽ tạo ra rủi ro lạm phát cho năm sau.

“Những tính toán sơ bộ của chúng tôi cho thấy chỉ riêng sự thay đổi này có thể làm tỷ lệ lạm phát trong vòng 1 năm tới tăng thêm 1,6 điểm phần trăm” – Báo cáo của VEPR cho hay.

Chia sẻ thêm về vấn đề này, TS. Phạm Thế Anh cho rằng cách đánh giá việc tăng thuế bảo vệ môi trường chỉ ảnh hưởng tới lạm phát của năm 2019 tăng khoảng 0,07 – 0,09 điểm phần trăm của cơ quan quản lý là quá thấp và chưa chính xác.

Bên cạnh đó, ông Phạm Thế Anh còn cho biết giá xăng dầu tăng còn kéo theo các tác động khác, ảnh hưởng đến giá nguyên vật liệu, làm tăng chi phí sản xuất của doanh nghiệp.

TS. Nguyễn Đức Thành, Viện trưởng VEPR nhận định lạm phát vào thời điểm cuối năm thường có xu hướng tăng do các yếu tố thị trường, tín dụng và giải ngân đầu tư công tăng mạnh vào cuối năm, ảnh hưởng và lan rộng sang các năm sau.

Đánh giá về khả năng kiểm soát lạm phát vào năm 2019, ông Thành đồng tình với quan điểm trong báo cáo và cho biết: “Chúng tôi cho rằng lạm phát năm 2019 sẽ vượt xa mức mục tiêu 4% mà Chính phủ và Quốc hội đặt ra cho những năm gần đây".

PGS.TS. Nguyễn Đức Thành trình bày nội dung Báo cáo Kinh tế Vĩ mô Quý III/2018 (Nguồn: VEPR)
PGS.TS. Nguyễn Đức Thành trình bày nội dung Báo cáo Kinh tế Vĩ mô Quý III/2018 (Nguồn: VEPR) 

Một nguyên nhân khác cũng có tác động nhiều tới chỉ số lạm phát trong nước là chính sách điều hành tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) cũng được các chuyên gia kinh tế đề cập tới.

“Trong bối cảnh hiện nay, NHNN nên chuyển hướng trọng tâm điều hành từ mục tiêu tăng trưởng kinh tế sang mục tiêu kiểm soát lạm phát. Vì tăng trưởng kinh tế đã nhiều khả năng đạt được mục tiêu, nên ngăn chặn lạm phát khi sức ép bắt đầu xuất hiện” – TS. Phạm Thế Anh nhận định.

Nguy cơ “nhập khẩu” lạm phát

Ngoài ra, một nguyên nhân khác cũng được TS. Phạm Thế Anh chia sẻ là việc đồng USD tăng giá sẽ khiến đồng nội tệ của các nước đang phát triển (trong đó có Việt Nam) bị mất giá và các nước này sẽ đối mặt với nguy cơ “nhập khẩu” lạm phát.

Mối lo ngại này có liên quan tới vấn đề điều hành chính sách tỷ giá nhằm tìm đến một mức “trung hòa” giữa các tác động tích cực và tiêu cực trong bối cảnh Chiến tranh thương mại Mỹ - Trung Quốc đã được VEPR và các chuyên gia kinh tế tham dự buổi tọa đàm nhiều lần đề cập.

Trích dẫn số liệu từ Công ty Chứng khoán HSC, báo cáo của VEPR cho biết, NHNN đã phải bán ra hơn 3,7 tỷ USD từ tháng 7 tới hiện tại để giữ ổn định tỷ giá. Trong thời gian tới, nếu đồng USD tiếp tục tăng giá, việc NHNN phải tiếp tục bán ra ngoại tệ hoặc nâng lãi suất có thể sẽ xảy ra, dẫn đến nhiều rủi ro cho nền kinh tế.

Mặt khác, trên thực tế lượng dự trữ ngoại hối của Việt Nam còn tương đối mỏng tính theo tuần nhập khẩu, nên việc can thiệp có quy mô hạn chế.

“Vì vậy, việc chủ động giảm giá VND một cách khéo léo giữa mức mất giá của CNY (đồng Nhân dân tệ) so với USD là cần thiết để Việt Nam thích ứng trong cuộc chiến tranh thương mại.” – Báo cáo của VEPR nêu.

Có ý kiến tương đồng với quan điểm trong báo cáo, TS. Nguyễn Chí Hiếu cho rằng: “Nên có sự điều chỉnh tỷ giá của VND ở mức cân bằng, nằm ở giữa sự mất giá của đồng CNY so với đồng USD”.

TS. Nguyễn Chí Hiếu cũng bày tỏ lo ngại về việc giữ ổn định tỷ giá một cách “cứng nhắc” sẽ khiến cho hàng hóa của Trung Quốc “đã rẻ nay còn rẻ hơn nữa” không những ảnh hưởng tới lạm phát mà còn làm tăng sức cạnh tranh của hàng hóa nước này khi nhập khẩu vào Việt Nam, gây ra sức ép rất lớn tới các doanh nghiệp trong nước./.