Dự án vaccine COVID-19 “made in Vietnam” vượt tiến độ 2 tháng

VietTimes – Với quy trình nghiên cứu nhanh chóng, dự án vaccine “made in Vietnam” phòng virus SARS-CoV-2 do các nhà khoa học của Công ty Vabiotech triển khai đang có triển vọng “về đích” sớm, vượt tiến độ 2 tháng. 
Các nhà nghiên cứu của Vabiotech đang tiến hành lấy mẫu máu chuột để đánh giá kháng thể đáp ứng miễn dịch sau tiêm (Ảnh: Thái Bình)
Các nhà nghiên cứu của Vabiotech đang tiến hành lấy mẫu máu chuột để đánh giá kháng thể đáp ứng miễn dịch sau tiêm (Ảnh: Thái Bình)

Vaccine dự tuyển có tính sinh miễn dịch khá cao

ThS. Mạc Văn Trọng - Công ty TNHH Vaccine và sinh phẩm số 1 (Vabiotech), Bộ Y tế - vừa nhận được tin từ TS. Đỗ Tuấn Đạt - Chủ tịch Vabiotech - cho hay, dự án nghiên cứu, sản xuất vaccine phòng COVID-19 của ông và các đồng nghiệp đã có kết quả: vaccine dự tuyển có tính sinh miễn dịch khá cao.

Với ThS. Trọng và nhóm nghiên cứu của Công ty Vabiotech, kết quả này có ý nghĩa sống còn. Dự án nghiên cứu, sản xuất vaccine phòng COVID-19 mà họ đang theo đuổi đang đi đúng hướng và đã cho kết quả bước đầu. “4 tháng quên ăn quên ngủ của chúng tôi đã được đền đáp” – ThS. Trọng nói.

Trước đó, vào ngày 15/5 và 29/5, 2 lô mẫu huyết thanh của 50 con chuột đã tiêm dự tuyển vaccine COVID-19 đã lần lượt được gửi sang Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương để đánh giá. Bằng việc tiêm so sánh với chính chủng virus hoang dại đã được bất hoạt cho chuột, Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương xác định các mẫu huyết thanh này đã cho đáp ứng kháng thể, trong đó có những mẫu đáp ứng khá cao.

“Đây là cơ sở để phát triển thành vaccine hoàn chỉnh” - PGS.TS. Nguyễn Lê Khánh Hằng - Phó trưởng Khoa Virus, Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương - nhận định.

Với kết quả này, Vabiotech đã vượt tiến độ 2 tháng của giai đoạn 1 dự án, cũng là giai đoạn quan trọng nhất trong quá trình nghiên cứu sản xuất vaccine COVID-19.

Ở giai đoạn tiếp theo, vaccine dự tuyển sẽ được phát triển thành vaccine hoàn chỉnh, ổn định và đủ tiêu chuẩn để sử dụng cho người. Nhóm nghiên cứu sẽ xây dựng quy trình sản xuất thương mại để có thể đáp ứng quy mô sản xuất lên tới hàng triệu, thậm chí là hàng chục triệu liều.

Chạy đua với thời gian

Mặc dù không sốt ruột trước thông tin nhiều nước đã bắt đầu thử nghiệm vaccine COVID-19 trên người, nhưng các nhà khoa học của Việt Nam cũng chạy đua với thời gian, nhất là trong bối cảnh thế giới đang đối mặt với nguy cơ của làn sóng COVID-19 thứ hai. Theo các nhà nghiên cứu, Việt Nam không đặt mục tiêu dẫn đầu, nhưng sẽ đón đầu, nhờ kế thừa được các kinh nghiệm của thế giới ứng phó với loại virus rất mới SARS-CoV-2.

“Để cho ra đời vaccine hoàn chỉnh cần từ 9 – 12 tháng nữa, nhưng chúng tôi đang nỗ lực để rút ngắn thời gian này. Dù vậy, so với mức trung bình 10 năm của một vaccine bình thường, thời gian 18 - 24 tháng để phát triển được một vaccine đã là một thành tựu rất đáng kể” - ThS.Trọng cho hay.

Nghiên cứu chế tạo vaccine phòng bệnh tại Công ty Vabiotech (Ảnh: Thanh Hằng)
Nghiên cứu chế tạo vaccine phòng bệnh tại Công ty Vabiotech (Ảnh: Thanh Hằng)

Cũng theo đại diện Vabiotech, dự án lần này không chỉ dừng lại ở việc cho ra đời loại vaccine mà cả thế giới đang trông đợi, mục tiêu lớn hơn là giúp tăng tính chủ động về vaccine cho Việt Nam, nhất là các vaccine đại dịch. Nếu trong tương lai xuất hiện thêm chủng coronavirus mới gây đại dịch ở người, với công nghệ sẵn có trong tay, chỉ cần “lắp ráp” phần gen của chủng virus mới vào là có thể cho ra đời một loại vaccine mới.

“Khi một nước nào đó có vaccine thương mại họ sẽ ưu tiên bảo vệ người dân của họ trước. Như đợt đại dịch cúm A/H1N1, mua 1 liều vaccine đã khó chưa nói gì đến mua cả triệu liều. Vì thế, tính chủ động vaccine đối với một quốc gia là rất quan trọng” - ThS. Trọng nhấn mạnh.

Dự án từng suýt đổ bể

Sau hàng chục năm tham gia và chịu trách nhiệm nhiều công trình lớn nghiên cứu và sản xuất vaccine, với ThS. Mạc Văn Trọng, dự án lần này là đặc biệt nhất. Bởi không chỉ do bối cảnh “virus thế kỷ” đang nhấn chìm thế giới trong đại dịch, mà còn vì những sóng gió chưa từng có mà nhóm nghiên cứu đã trải qua.

Dự án khởi đầu rất thuận lợi do được tài trợ kinh phí diện “khẩn cấp” của Quỹ VinIF, nhằm ứng phó với một đại dịch toàn cầu. Nhiều công đoạn nghiên cứu của dự án đã được thực hiện tại Phòng thí nghiệm của Đại học Bristol (Anh) ngay từ đầu tháng 2/2020 nhằm đẩy nhanh tiến độ.

Tuy nhiên, dự án đã suýt đổ bể khi châu Âu bị phong tỏa, toàn bộ các hoạt động nghiên cứu phải tạm dừng. Do đã lường trước nguy cơ này nên nhóm nghiên cứu đã làm việc gần như 24/7, mỗi ngày chỉ ngủ vài tiếng để kịp hoàn thành kế hoạch đặt ra. May mắn, các thành viên vừa rời đi thì nước Anh phong tỏa và về đến Việt Nam ngay sát thời điểm đóng cửa đường hàng không hồi cuối tháng 3.

“Chúng tôi đã chịu áp lực rất lớn. Lo ngại nhất khi đó là không chuyển được mẫu về Việt Nam, bởi nếu thế thì kết quả nghiên cứu gần 2 tháng trời sẽ đổ sông đổ biển” - ThS. Trọng nhớ lại.

Để bù tiến độ cho 14 ngày gián đoạn vì cách ly tập trung sau khi về nước, nhóm nghiên cứu tiếp tục làm việc với cường độ 1 ngày bằng 2 ngày. Phòng thí nghiệm của Vabiotech khi đó đã trở thành “phòng cách ly để nghiên cứu” của những nhà khoa học trở về từ Anh. Nhờ thế mà chỉ 1 tháng sau, vaccine dự tuyển đã được hoàn thành để tiêm thử nghiệm trên chuột.

ThS. Mạc Văn Trọng đang phân tích kết quả biểu hiện gen S của COVID-19 tại Phòng thí nghiệm Viện Sinh-Hóa, Trường Đại học Bristol (Anh) (Ảnh: VGP)

ThS. Mạc Văn Trọng đang phân tích kết quả biểu hiện gen S của COVID-19 tại Phòng thí nghiệm Viện Sinh-Hóa, Trường Đại học Bristol (Anh) (Ảnh: VGP) 

Công nghệ mà Vabiotech sử dụng trong sản xuất vaccine phòng, chống dịch bệnh mà đến nay đã khiến gần 9 triệu người trên toàn thế giới nhiễm, gần 500.000 người tử vong, là công nghệ vector virus thay vì các công nghệ vaccine bất hoạt hay sống giảm độc lực như truyền thống.

Đây là công nghệ mới, đa năng, cho hiệu suất sản xuất cao, không phụ thuộc vào việc nuôi cấy toàn thể tác nhân gây bệnh, phù hợp đối với các vaccine đại dịch.

TS. Đỗ Tuấn Đạt - Chủ tịch Vabiotech - tiết lộ: “Nhờ nguồn kinh phí tài trợ, Công ty đã nâng cấp được hệ thống nuôi cấy tế bào Bioreactor vốn đã được trang bị gần 10 năm trước. Model thế hệ mới này thích ứng hơn với công nghệ vector virus mà chúng tôi đang dùng.”

Cũng theo tác giả của nhiều nghiên cứu phát triển vaccine “made in Vietnam”, dự án của Vabiotech có thể tăng tốc còn do được “hưởng lợi” từ những kết quả của đề tài nghiên cứu đặc điểm dịch tễ học của virus SARS-CoV-2 mà Viện Vệ sinh Dịch tễ Trung ương đang triển khai. Đây cũng là một dự án cấp bách do Quỹ VinIF tài trợ ngay khi dịch COVID-19 mới bùng phát. Nhờ các thông tin “giải mã” này mà dù nhiều nước đã “việt vị” trong dự đoán về dịch bệnh nguy hiểm bậc nhất đầu thế kỷ XXI nhưng Việt Nam vẫn có thể làm chủ tình hình.

Chính vì thế, TS. Đạt kỳ vọng: “Việt Nam đã xuất sắc khi trở thành một điểm sáng của thế giới về phòng chống và kiểm soát dịch bệnh. Chúng tôi kỳ vọng vào những thắng lợi tiếp theo, trong đó có vaccine COVID-19 “made in Vietnam”.