Thử hình dung về “thế giới thời hậu Covid-19”

Yuval Noah Harari là nhà sử học, triết gia, tác giả của các cuốn sách nổi tiếng như Sapiens (Lược sử loài người), Homo Deus (Lược sử tương lai) và 21 Lessons for the 21st Century (21 bài học cho thế kỷ 21). Dưới đây là bài viết tiêu đề “Thế giới thời hậu Covid-19” của ông đăng trên Financial Times.

Loài người đang phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng toàn cầu. Có lẽ, đây chính là cuộc khủng hoảng lớn nhất trong thế hệ của chúng ta. Những quyết định người dân cũng như chính phủ các quốc gia lựa chọn có thể đem lại những thay đổi cho toàn bộ thế giới trong những năm tới. Thay đổi sẽ không chỉ đến từ hệ thống chăm sóc sức khỏe người dân, mà còn đến từ các chính nền kinh tế, chính trị và văn hóa.

Chúng ta phải hành động tức thời và quyết đoán. Mục tiêu chúng ta hành động là hướng đến những thành tựu trong dài hạn. Khi đứng trước các lựa chọn, chúng ta nên tự hỏi bản thân không chỉ bằng cách nào chúng ta cùng nhau vượt qua được thời điểm khó khăn hiện tại, mà còn là thế giới sẽ thay đổi ra sao khi “cơn bão” này đi qua? Đúng thế, cơn bão nào cũng sẽ có hồi kết, loài người sẽ sống sót và vẫn ở đây, trên Trái đất này nhưng thế giới sau cơn bão không còn là thế giới chúng ta từng biết nữa.

Nhiều biện pháp khẩn cấp trong ngắn hạn ở thời điểm hiện tại sẽ trở thành một phần tất yếu trong cuộc sống hàng ngày của rất nhiều người trong tương lai. Đó là lẽ tự nhiên khi chính phủ các nước đang nỗ lực nhằm đương đầu với những tình huống khó khăn. Họ đẩy nhanh guồng quay của lịch sử. Thông thường, một quyết định chỉ được thông qua sau khi đã trải qua hàng năm trời cân nhắc thiệt hơn. Ở thời điểm hiện tại, thời gian đó có thể chỉ được tính bằng giờ. Những công nghệ chưa hoàn thiện, thậm chí nguy hiểm, cũng được cân nhắc đưa vào ứng dụng, vì họ biết rõ rủi ro khi không làm gì chắc chắn còn lớn hơn.

Tất cả quốc gia giờ đây không khác gì những “chú chuột bạch” cho các “thí nghiệm lớn” mang tính chất toàn xã hội. Sẽ ra sao nếu như từ đây mọi người chỉ làm việc ở nhà và giao tiếp với nhau thông qua các ứng dụng kết nối internet? Sẽ ra sao nếu như tất cả trường học chuyển hoàn toàn sang hình thức trực tuyến? Nếu như dịch bệnh không xảy ra, các chính phủ, các doanh nghiệp và trường học sẽ không bao giờ muốn trở thành “nhân vật chính” trong những thí nghiệm đó cả.

Tuy nhiên, tình hình ở thời điểm hiện tại đã khác rất nhiều. Trong giai đoạn khủng hoảng này, chúng ta phải đối mặt với 2 lựa chọn rất quan trọng. Lựa chọn đầu tiên nằm giữa sự tập trung quyền lực tối cao hoặc trao quyền tự quyết cho người dân. Hai là giữa chủ nghĩa cô lập, “bế quan tỏa cảng” và sự đoàn kết, thống nhất toàn cầu.

Nhà sử học, triết gia Yuval Noah Harari. Ảnh: TED Talks.
Nhà sử học, triết gia Yuval Noah Harari. Ảnh: TED Talks.

Kiếm soát chặt chẽ

Để có thể chặn đứng dịch bệnh, toàn bộ người dân cần phải tuân thủ theo những hướng dẫn cụ thể. Có hai cách đạt mục tiêu này. Cách thứ nhất đó là sự quản lý nghiêm khắc từ phía chính phủ. Họ có quyền phạt bất cứ ai đi ngược lại những quy định đã được đưa ra. Thời điểm hiện tại là lần đầu tiên trong lịch sử loài người, công nghệ góp phần rất lớn vào quá trình giám sát người dân 24/7.

50 năm trước, cơ quan an ninh chính phủ Nga (KGB) đã không thể nào theo sát 240 triệu người dân Liên Xô 24 giờ/ngày. Họ cũng không thể xử lý hiệu quả những dữ liệu mà họ thu thập được. KGB phụ thuộc rất lớn vào các đặc vụ và các chuyên gia phân tích và dĩ nhiên, họ không thể nào đáp ứng đủ các đặc vụ để theo sát từng cư dân được. Ở thời điểm hiện tại, các chính phủ chỉ cần dựa vào các cảm biến được gắn ở khắp mọi nơi, thêm vào đó là các thuật toán “đầy ma lực”.

Trong cuộc chiến chống Covid-19, nhiều quốc gia áp dụng hàng loạt các công cụ kiểm soát mới, điển hình là Trung Quốc. Bằng cách kiểm soát chặt điện thoại thông minh của người dân, đưa dữ liệu nhận dạng khuôn mặt của hàng trăm triệu người dân lên hệ thống, buộc tất cả mọi người phải nghiêm chỉnh tuân thủ các biện pháp đo và báo cáo nhiệt độ cơ thể, các cơ quan chức năng quốc gia này nhanh chóng phát hiện ra các ca nhiễm bệnh, đồng thời thu thập thông tin di chuyển của họ, tìm ra các trường hợp tiếp xúc gần. Một loạt các ứng dụng điện thoại đã giúp đưa ra cảnh báo cho người dân về việc họ có thể đang ở trong phạm vi gần với một bệnh nhân mang Covid-19.

Hình thức này không chỉ được sử dụng ở khu vực Đông Á. Thủ tưởng Israel Benjamin Netanyahu cho phép cơ quan tình báo -an ninh quốc gia này được sử dụng dữ liệu thu thập từ mạng lưới camera an ninh, vốn được lắp đặt rộng khắp để đối phó với các phần tử khủng bố, nhằm phục vụ cho công tác theo dõi các bệnh nhân mắc Covid-19. Khi tiểu ban an ninh quốc hội Israel lên tiếng phản đối phương án này, ông Netanyahu lập tức nâng mức cảnh báo dịch bệnh Covid-19 tại quốc gia này lên “khẩn cấp”.

Bạn có thể cho rằng hình thức này chẳng có gì mới. Trong vài năm trở lại đây, chính phủ cũng như các tập đoàn lớn thậm chí sử dụng những công nghệ tiên tiến hơn nhằm giám sát, kiểm soát người dân. Nhưng nếu chúng ta chủ quan, đây chính là thời điểm bước ngoặt trong lịch sử an ninh thế giới. Điều này sẽ trở thành tiền lệ khi nhiều quốc gia, vốn trước kia phản đối kịch liệt việc sử dụng các hình thức giám sát dân chúng, giờ đây cũng đã bắt đầu thu thập dữ liệu.

Và các hình thức giám sát trong tương lai chắc chắn sẽ có sự thay đổi đáng kể.

Từ trước đến nay, khi ngón tay của bạn chạm vào màn hình điện thoại và nhấn vào một đường link, các cơ quan chức năng muốn biết chính xác bạn đang làm gì. Nhưng khi dịch Covid-19 bùng nổ, mục tiêu của hành động này đã thay đổi. Giờ đây, các cơ quan chức năng muốn biết nhiệt đô đo được ở đầu ngón tay của bạn và huyết áp dưới da ở thời điểm đó.

Một trong những vấn đề phải đối mặt trong quá trình cân nhắc có nên ủng hộ sự giám sát chặt chẽ từ phía các cơ quan chức năng hay không đó chính là không một ai trong chúng ta biết chính xác cách thức giám sát và trong một vài năm nữa, hình thức này sẽ thay đổi ra sao. Công nghệ giám sát đang phát triển với tốc độ đáng kinh ngạc và những điều được coi là khoa học viễn tưởng 10 năm về trước thì ngày nay có thể nó đã không còn gì mới mẻ nữa.

Bạn hãy tưởng tượng xem, một chính phủ giả định yêu cầu tất cả công dân của mình phải đeo một vòng tay sinh trắc học nhằm theo dõi nhiệt độ cơ thể và nhịp tim của họ 24/7. Những dữ liệu thu thập được sẽ được lưu trữ và xử lý bởi các thuật toán. Các thuật toán sẽ giúp nhận biết được liệu người đeo có bị ốm hay không, thậm chí trước cả khi những triệu chứng xuất hiện. Thiết bị cũng cho phép họ biết được bạn đã đi những đâu và gặp những ai. Các chuỗi lây bệnh có thể nhanh chóng bị thu hẹp và chặn đứng. Những hệ thống như thế có thể rất có ích trong việc dập tắt dịch bệnh chỉ trong vòng chưa đến 1 tuần lễ. Nghe thật tuyệt vời phải không?

Mặt trái ở đây là điều đó cho phép một hệ thống giám sát “đáng sợ” sẽ được hợp thức hóa. Ví dụ, nếu như tôi nhấp chuột vào một đường link bài báo trên Fox News chứ không phải là CNN, điều đó có thể cho những người kiểm soát biết được quan điểm chính trị của tôi và có lẽ cả những đặc điểm tính cách của tôi nữa. Nếu như ngay cả những đặc điểm của cơ thể như thân nhiệt, huyết áp và nhịp tim của tôi cũng bị kiểm soát, bạn thậm chí có thể biết được điều gì đã làm tôi vui, điều gì đã làm tôi buồn, và điều gì đã làm tôi vô cùng tức giận.

Trong cuộc chiến chống Covid-19, nhiều quốc gia áp dụng hàng loạt các công cụ kiểm soát mới, điển hình là Trung Quốc. Ảnh: Financial Times.Trong cuộc chiến chống Covid-19, nhiều quốc gia áp dụng hàng loạt các công cụ kiểm soát mới, điển hình là Trung Quốc. Ảnh: Financial Times.
Cảm xúc giận dữ, vui vẻ, chán nản và thậm chí là cả tình yêu là những hiện tượng sinh học, cũng giống như khi bạn sốt và ho. Công nghệ có thể phát hiện ra bạn đang ho, cũng sẽ biết khi nào bạn đang cười. Nếu như các tập đoàn lớn và các chính phủ tiến hành thu thập thông tin sinh triết học trên quy mô lớn, họ có thể thấu hiểu bản thân bạn còn hơn chính bạn. Họ sẽ không chỉ dự đoán được cảm xúc của chúng ta mà thậm chí còn có thể điều khiển chúng.

Việc kiểm soát sinh trắc học có thể biến những thủ thuật ăn cắp dữ liệu của Cambridge Analytica trở thành những công nghệ áp dụng trong thời kỳ đồ đá.

Tất nhiên là bạn có thể lập luận việc giám sát sinh học có thể được sử dụng như một biện pháp tạm thời khi đất nước đang rơi vào tình trạng khẩn cấp. Hình thức này sẽ dừng hoạt động khi giai đoạn khó khăn đi qua. Những phương pháp bạn coi là tạm thời sẽ không bao giờ biến mất hoàn toàn, nhất là khi luôn có những khó khăn khác đang chờ ập tới. Quê hương tôi, Israel, là một ví dụ, đã tuyên bố tình trạng khẩn cấp trong suốt cuộc chiến giành độc lập diễn ra năm 1948. Chính phủ đã áp dụng một loạt các biện pháp tạm thời từ kiểm duyệt báo chí, sung công đất đai cho đến những quy định về làm bánh pudding. Cuộc chiến đã kết thức nhưng Israel chưa bao giờ công bố thoát khỏi tình trạng khẩn cấp, qua đó cũng không thể hủy bỏ một loạt các biện pháp được coi là “tạm thời”.

Ngay cả khi dịch Covid-19 lắng xuống, nhiều chính phủ “đói thông tin” cũng sẽ viện cớ rằng họ cần phải duy trì hệ thống kiếm soát sinh trắc học vì họ lo sợ một đợt sóng virus corona mới, hoặc có chủng virus Ebola mới đang sinh sôi tại Trung Phi. Một cuộc chiến lớn được khởi xướng chỉ vài năm trở lại đây. Đó chính là cuộc chiến về quyền riêng tư. Khủng hoảng Covid-19 có thể là bước ngoặt cho cuộc chiến này. Đây chính là lúc mỗi chúng ta đưa ra lựa chọn giữa sự riêng tư và sức khỏe. Và chắc chắn, mọi người sẽ nghiêng về sức khỏe.

'Cảnh sát xà phòng'

Gốc rễ của vấn đề ở đây là chúng ta đã trói buộc loài người vào sự lựa chọn giữa sự riêng tư và sức khỏe. Trên thực tế, chúng ta vừa có thể giữ được sự riêng tư, vừa có thể bảo vệ sức khỏe bản thân. Chúng ta có thể đảm bảo sức khỏe bản thân và đẩy lùi Covid-19 thông qua sự trao quyền mà không cần dùng đến hệ thống giám sát người dân.

Vài tuần trở lại đây, một số biện pháp nhằm ngăn chặn virus Covid-19 đã được Hàn Quốc, Singapore triển khai và có hiệu quả. Trong khi nơi khác phụ thuộc vào những ứng dụng giám sát thì các quốc gia  trên lại đặt niềm tin vào phương pháp xét nghiệm số lượng lớn, những khai báo trung thực và sự tình nguyện hợp tác từ một thế hệ người dân có nhận thức cao.

Việc quản lý tập trung hoặc ban hành các hình phạt nặng không phải là cách hiệu quả nhất để ép mọi người tuân thủ theo những hướng dẫn có lợi cho họ. Khi nhiều người được tuyên truyền về những bằng chứng khoa học, khi người dân tin vào chính quyền, họ sẽ biết bản thân nên làm những gì mà không cần một sự giám sát nào hết. Đại bộ phận người dân có hiểu biết có thể mang lại nguồn sức mạnh thậm chí còn lớn và hiệu quả hơn một bộ phận bị kiểm soát tốt những thiếu kiến thức.

Ví dụ như việc rửa tay với xà phòng. Đây chính là một trong những biện pháp hiệu quả nhất trong việc bảo đảm vệ sinh cho mỗi chúng ta. Hành động tưởng chừng như đơn giản này đã cứu sống hàng triệu con người mỗi năm. Nhưng mãi đến thế kỷ 19, các nhà khoa học mới khám phá ra tầm quan trọng của việc rửa tay với xà phòng. Trước đó, ngay cả các bác sĩ và y tá cũng thờ ơ với điều này. Họ chuyển từ ca mổ này sang ca mổ khác mà thậm chí không hề rửa tay.

Ngày nay, hàng tỷ người đang thực hiện việc rửa tay mỗi ngày, không chỉ vì họ sợ những “cảnh sát xà phòng” mà trên thực tế là họ hiểu được tầm quan trọng của việc đó. Tôi rửa tay với xà phòng mỗi ngày vì tôi biết đến sự hiện diện của các loài vi khuẩn và virus. Tôi hiểu bằng cách nào những sinh vật tí hon đó lại gây ra những dịch bệnh khó lường. Tôi biết xà phòng là cách tốt nhất giúp tôi loại bỏ chúng.

Nhưng để đi đến được một mức độ tuân thủ và hợp tác nhất định, bạn cần phải có niềm tin. Mọi người phải có niềm tin vào khoa học, vào chính quyền và phương tiện truyền thông. Trong suốt vài năm qua, những chính trị gia vô trách nhiệm  hạ thấp niềm tin vào những điều trên. Và giờ đây, cũng chính họ mang hệ tư tưởng độc đoán, đưa ra những lý lẽ không thể tin vào số đông để làm điều đúng được.

Thực sự, sự tin tưởng bị “bào mòn” trong nhiều năm không thể xây dựng lại chỉ trong một đêm. Nhưng thời điểm hiện tại là khoảng thời gian hoàn toàn không bình thường. Trong khủng hoảng, hệ tư tưởng có thể thay đổi một cách nhanh chóng. Bạn có thể có những hiềm khích với anh chị em trong gia đình trong nhiều năm nhưng khi tình huống khẩn cấp xảy ra, bạn sẽ ngay lập tức nhận ra niềm tin và lòng trắc ẩn chưa bao giờ mất đi trong con người bạn. Bạn sẽ ngay lập tức đưa tay giúp đỡ nếu như có ai đó cần.

Thay vì việc xây dựng các hệ thống giám sát, vẫn chưa quá muộn để có thể tái xây dựng niềm tin của con người vào khoa học, chính quyền cũng như các phương tiện truyền thông. Chúng ta không nên bỏ qua các công nghệ mới nhưng những công nghệ đó phải phục vụ cuộc sống người dân. Tôi hoàn toàn ủng hộ việc kiểm soát thân nhiệt và huyết áp của bản thân, nhưng những thông tin đó chỉ nên dừng lại ở việc theo dõi sức khỏe chứ không nên được sử dụng để xây dựng một chính phủ “toàn năng”. Những dữ liệu đó sẽ cung cấp cho tôi thông tin cần thiết về việc bản thân mình nên làm gì.

Nếu như tôi có thể theo dõi tình hình sức khỏe của bản thân 24/24 giờ, tôi không chỉ biết được liệu mình có trở thành mối đe dọa về sức khỏe đối với những người xung quanh hay không, bên cạnh đó, tôi cũng học được những thói quen nhằm nâng cao sức khỏe của mình.

Nếu tôi có thể đánh giá và phân tích những thống kê đáng tin cậy về mức độ lây lan của Covid-19, tôi cũng sẽ có thể tự đánh giá được rằng những thông tin cung cấp bởi chính phủ có thực sự chính xác hay không, và những biện pháp mà họ đang áp dụng có thực sự mang lại hiệu quả hay không. Mỗi khi chúng ta nói về sự giám sát, hãy nhớ rằng một công nghệ giám sát có thể được sử dụng không chỉ bởi chính phủ để giám sát người dân, mà còn để người dân giám sát chính phủ.

Rửa tay, hành động tưởng chừng như đơn giản này đã cứu sống hàng triệu con người mỗi năm. Ảnh: Free Malaysia Today.
Rửa tay, hành động tưởng chừng như đơn giản này đã cứu sống hàng triệu con người mỗi năm. Ảnh: Free Malaysia Today.

Cần một kế hoạch toàn cầu

Lựa chọn quan trọng thứ hai mà chúng ta phải đối mặt đó là giữa tư tưởng cô lập, “bế quan tỏa cảng”, và tinh thần đoàn kết toàn cầu. Cả dịch bệnh và hệ quả suy thoái kinh tế là những vấn đề mang tính toàn cầu. Chúng chỉ có thể được giải quyết hiệu quả nếu như có sự chung tay của toàn bộ các quốc gia trên thế giới.

Đầu tiên, để có thể đánh bại được Covid-19, chúng ta cần chia sẻ những thông tin quan trọng đến toàn thế giới. Đó sẽ là lợi thế rất lớn của loài người trước dịch bệnh. Covid-19 tại Trung Quốc với Covid-19 tại Mỹ sẽ không thể nào chia sẻ những “bí kíp lây bệnh” cho nhau được, nhưng Trung Quốc có thể chia sẻ với Mỹ những bài học quý báu về Covid-19 và bằng cách nào có thể chiến thắng được dịch bệnh.

Điều mà một bác sĩ tại Milan, Italia, phát hiện được trong buổi sáng có thể cứu sống nhiều mạng người tại Tehran, Iran, vào buổi chiều. Khi chính phủ Anh đang lưỡng lự giữa một vài chính sách, họ có tham khảo những lời khuyên từ Hàn Quốc, từng đối mặt tình trạng tương tự Anh hiện tại khoảng 1 tháng trước. Nhưng để điều này trở thành hiện thực, chúng ta cần một tinh thần hợp tác và tin tưởng toàn cầu.

Các quốc gia nên sẵn sàng chia sẻ thông tin một cách cởi mở nhất và cũng phải “hăm hở” tìm kiếm các bài học kinh nghiệm, những lời khuyên chân thành; phải luôn tin tưởng những dữ liệu cũng như thông tin nhận được. Chúng ta cũng cần một nỗ lực trên quy mô toàn cầu để sản xuất và phân phối các thiết bị, vật tư y tế, và quan trọng nhất là các bộ xét nghiệm và máy trợ thở. Thay vì các quốc gia riêng lẻ cố gắng tự cung tự cấp và tích trữ tất cả những gì mà họ có thể sản xuất được, một nỗ lực mang tính toàn cầu có thể giúp đẩy nhanh việc sản xuất các thiết bị y tế, và đảm bảo rằng các thiết bị đó được phân phối một cách công bằng giữa các quốc gia.

Cũng như nhiều quốc gia quốc hữu hóa những ngành công nghiệp quan trọng trong thời kỳ chiến tranh, cuộc chiến giữa con người chống lại Covid-19 cũng cần chúng ta phải “nhân đạo hóa” những dây chuyền sản xuất các thiết bị thiết yếu. Các quốc gia giàu có hơn, có ít ca nhiễm bệnh hơn nên chia sẻ những thiết bị “quý giá” giúp cứu sống người bệnh tại các quốc gia nghèo khó hơn, với nhiều ca nhiễm bệnh hơn, với niềm tin mãnh liệt rằng khi nào đất nước lâm vào tình thế khó khăn, họ cũng sẽ nhận được cánh tay giúp đỡ từ các quốc gia khác.

Chúng ta cũng có thể liên hệ nỗ lực toàn cầu này đến lực lượng các y, bác sĩ, y tá. Các quốc gia ít bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh có thể cử những cán bộ y tế đến những khu vực bị ảnh hưởng nặng nề nhất, một mặt có thể chung tay giúp đẩy lùi dịch bệnh, một mặt cũng giúp họ có thêm những bài học kinh nghiệp trong quá trình chiến đấu với chủng virus mới này. Khi vùng ảnh hưởng của dich bệnh di chuyển sang quốc gia họ, họ sẽ quay trở về sẵn sàng chiến đấu và các quốc gia khác cũng sẽ làm điều tương tự.

Sự hợp tác toàn cầu là vô cùng quan trọng trên mặt trận kinh tế. Trong bối cảnh kinh tế và các chuỗi cung ứng thế giới phát triển, nếu như mỗi quốc gia tự quyết định vận mệnh không quan tâm đến các quốc gia khác, sự hỗn loạn và suy thoái kinh tế sâu là điều khó có thể tránh khỏi. Chúng ta cần một kế hoạch hành động toàn cầu, càng nhanh càng tốt.

Một yêu cầu khác đó là các quốc gia phải đạt được một thỏa thuận về đi lại qua biên giới. Việc tạm dừng mọi hoạt động đi lại trong nhiều tháng có thể gây ra rất nhiều hệ lụy, và đó là một “nhát dao” cứa vào những nỗ lực chống lại Covid-19. Các quốc gia cần phải ngồi lại với nhau để cho phép ít nhất là các cá nhân quan trọng sẽ tiếp tục được di chuyển vào lãnh thổ của nhau, ví dụ như các nhà khoa học, các y, bác sĩ, các nhà báo, các chính trị gia và doanh nhân. Điều này hoàn toàn có thể thực hiện được nếu như các quốc gia đạt thỏa thuận về việc kiếm soát chặt chẽ những cá nhân đó trước khi xuất cảnh. Nếu như biết những nhân vật đang ngồi trên máy bay kia đã được kiểm tra hết sức kỹ lưỡng, bạn sẽ vui vẻ chào đón họ.

Không may, ở thời điểm hiện tại, các quốc gia hầu như không thể thực hiện được những điều kể trên. “Một căn bệnh bại liệt” đã bóp chặt cộng đồng quốc tế. Một cuộc họp khẩn cấp giữa các lãnh đạo toàn cầu bàn về một kế hoạch hành động chung đáng lẽ phải diễn ra từ rất lâu. Giờ đây, các lãnh đạo G7 lại tổ chức họp trực tuyến, và kết quả thì chẳng có gì khả quan.

Trong những thời kỳ suy thoái, ví dụ như cuộc suy thoái kinh tế năm 2008 và dịch bệnh Ebola năm 2014, Mỹ nắm vai trò là người lãnh đạo toàn cầu. Nhưng ở thời điểm hiện tại, chính quyền Mỹ lại từ chối đảm đương trọng trách đó. Nước này tuyên bố rõ ràng rằng họ chỉ quan tâm đến sự vĩ đại của nước Mỹ, hơn là tương lai của loài người.

Chính quyền Mỹ thậm chí còn “bỏ rơi” những đồng minh thân cận nhất. Khi quốc gia này ban hành lệnh cấm các chuyến bay xuất phát từ liên minh châu Âu (EU), họ thậm chí còn không cho EU một thông báo trước để có thể kịp thời chuẩn bị. Họ cũng tạo ra ấn tượng xấu với Đức bằng cách đưa ra lời “chào mời” trị giá 1 tỷ USD để mua lại quyền độc quyền sản xuất một loại vắc xin chống Covid-19 từ một công ty dược phẩm Đức. Ngay cả khi chính quyền hiện tại thay đổi “cách hành xử” và đề xuất một kế hoạch hành động toàn cầu, sẽ có rất ít những lãnh đạo các quốc gia khác lên tiếng ủng hộ một vị lãnh đạo, người chưa bao giờ dám đứng lên nhận trách nhiệm, người chưa bao giờ thừa nhận những sai sót, và người thường xuyên vụ lợi cho bản thân, hay đổi lỗi cho người khác.

Nếu như khoảng trống để lại bởi nước Mỹ không thể được lấp đầy, không chỉ nỗ lực chống dịch Covid-19 trở nên khó khăn hơn, đó cũng sẽ trở thành tiền lệ, ảnh hưởng xấu đến mối quan hệ giữa các quốc gia trên thế giới trong tương lai. Mọi cuộc khủng hoảng đều cho ta cơ hội. Chúng ta phải hy vọng rằng dịch bệnh hiện tại sẽ giúp nhân loại nhận ra sự nguy hiểm “tột cùng” gây ra bởi sự chia rẽ.

Nhân loại cần đưa ra lựa chọn của chính mình. Liệu chúng ta chọn sự chia rẽ hay sự đoàn kết toàn cầu? Nếu chúng ta chọn sự chia rẽ, điều này không chỉ sẽ khiến cuộc chiến hiện tại của chúng ta kéo dài thêm mà còn khiến những thảm họa trong lương lai để lại hậu quả nặng nề hơn.

Nếu chúng ta chọn sự đoàn kết toàn cầu, đó sẽ là chiến thắng không chỉ trước virus Covid-19, mà còn là chiến thắng của loài người trước những dịch bệnh, các cuộc khủng hoảng có thể tấn công chúng ta trong thế kỷ 21.

Theo NDH