Năm 2035: Việt Nam làm chủ công nghệ vệ tinh

VietTimes -- Đến năm 2035, Việt Nam sẽ làm chủ hoàn toàn công nghệ vệ tinh, đặt mục tiêu phát triển các ứng dụng công nghệ vệ tinh phục vụ hiệu quả cho kinh tế - xã hội vào năm 2030 và đến năm 2035 thì sẽ tự thiết kế một số thành phần của vệ tinh và xây dựng các trạm phóng tên lửa ở trong nước.
Ảnh minh hoạ.
Ảnh minh hoạ.

Đây là thông tin được đưa ra tại Hội thảo các thành tựu nổi bật về nghiên cứu và ứng dụng công nghệ vũ trụ giai đoạn 2006-2015 và định hướng phát triển giai đoạn 2016-2020 của Việt Nam do Bộ Khoa học và Công nghệ tổ chức ngày 30/9.

Đại diện các cơ quan nghiên cứu và ứng dụng công nghệ vũ trụ đã báo cáo các kết quả đạt được và đề xuất các sáng kiến, giải pháp để hoàn thành mục tiêu đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt trong Quyết định số 137/2006/QĐ-TTg ngày 14/6/2006 về Chiến lược nghiên cứu và ứng dụng công nghệ vũ trụ đến năm 2020.

Sau gần 10 năm triển khai, việc nghiên cứu ứng dụng công nghệ vũ trụ đã được phát triển tại nhiều ngành. Theo sự phát triển của thế giới, việc ứng dụng cơ sở dữ liệu ảnh vệ tinh cho các ngành đã được mở rộng và thường xuyên triển khai tại Việt Nam trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội, môi trường, quốc phòng, an ninh… Công nghệ vũ trụ đã hỗ trợ lớn cho phòng chống, giảm nhẹ thiên tai và biến đổi khí hậu, quản lý và phát triển nguồn tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là tài nguyên biển, phát triển nông nghiệp, thiết lập cơ sở hạ tầng viễn thông và truyền hình qua vệ tinh, các ứng dụng định vị vệ tinh, sử dụng khoảng không vũ trụ vì mục đích thương mại và các mục đích hòa bình khác…

 Việc mở rộng và thương mại hóa các sản phẩm ứng dụng công nghệ vũ trụ, việc đưa các ứng dụng của công nghệ vũ trụ vào phục vụ cho nhu cầu của các ngành sản xuất, dịch vụ, giáo dục, y tế… đã lên đến 23 ngành. Công nghệ vũ trụ đã hỗ trợ lớn cho phòng chống, giảm nhẹ thiên tai và biến đổi khí hậu, quản lý và phát triển nguồn tài nguyên thiên nhiên.

Theo báo cáo của Cục Tần số vô tuyến điện, trong giai đoạn 2016 – 2020, việc nghiên cứu khả thi của dự án vệ tinh thay thế Vinasat-1 cần sớm được thực hiện trước khi vệ tinh Vinasat-1 ngừng sử dụng tránh để lãng phí nguồn tài nguyên phổ tần. Công tác kiểm soát vệ tinh và cung cấp dịch vụ băng rộng vệ tinh cần tiếp tục được thúc đẩy... là hướng đi thiết thực nhằm góp phần cho sự phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo quốc phòng an ninh của đất nước.
Tính đến nay, Việt Nam đã đầu tư sở hữu các thiết bị vũ trụ gồm: Vệ tinh thông tin truyền thông VINASAT-1 và 2 do Bộ Thông tin &Truyền thông quản lý; Vệ tinh quan sát Trái đất VNREDSAT-1 do Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam quản lý; Trạm thu mặt đất ảnh Vệ tinh SPOT do Bộ Tài nguyên và Môi trường quản lý; Trạm thông tin điện tử hàng hải Việt Nam - Vệ tinh INMARSAT do Bộ Giao thông Vận tải quản lý; Hệ thống quan sát tàu cá, ngư trường, nguồn lợi thủy sản bằng công nghệ vệ tinh (MOVIMAR)” do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quản lý... Bên cạnh đó, hệ thống các phòng thí nghiệm cơ bản về vật liệu, y sinh, công nghệ sinh học, vật liệu nano… được hình thành từ những năm 1980 cho đến nay cũng được đánh giá là nền móng cho hoạt động nghiên cứu và ứng dụng công nghệ vũ trụ.

Theo Chủ tịch Hội đồng quản lý Viện Nghiên cứu khoa học biển và hải đảo Nguyễn Bá Diến để hoàn thành được mục tiêu, nhiệm vụ của Chiến lược nghiên cứu và ứng dụng công nghệ vũ trụ đến năm 2020, Chính phủ và các bộ ngành cần khẩn trương xây dựng thực hiện dự án xây dựng Luật Vũ trụ của Việt Nam và các văn bản luật chuyên ngành khác có liên quan trong khung pháp lý cơ bản của quốc gia về lĩnh vực vũ trụ với định hướng chung là phù hợp với pháp luật quốc tế và các nguyên tắc chung trong sử dụng khoảng không vũ trụ.

Để ngành công nghệ vũ trụ đạt mục tiêu là ngành công nghệ mũi nhọn cần phải có cơ chế đầu tư, đãi ngộ đặc thù. Cần khẩn trương xây dựng một chiến lược đào tạo nguồn nhân lực dài hạn một cách tập trung, hướng trọng điểm vào giải quyết một số vấn đề  của quốc gia, mở các chuyên ngành công nghệ chuẩn, theo kinh nghiệm và mô hình các quốc gia tiên tiến.