GS Trần Vĩnh Diệu: Huyền thoại “Ông compozite”

VietTimes -- GS TSKH Trần Vĩnh Diệu, Anh hùng Lao động, Nhà giáo nhân dân và nhiều giải thưởng KHCN, là chuyên gia hàng đầu trên lĩnh vực Hóa hữu cơ của Việt Nam với những công trình nghiên cứu tiêu biểu về các sản phẩm liên quan đến vật liệu Polyme và Compozit. Người ta hay gọi GS Diệu với cái tên trìu mến: “Ông Compozite”
GS TSKH Trần Vĩnh Diệu.
GS TSKH Trần Vĩnh Diệu.

Những công trình để đời

GS TSKH Trần Vĩnh Diệu tiếp chúng tôi tại phòng làm việc của ông ở Trung tâm Vật liệu Polyme và Compozit (trong khuôn viên của Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội), nơi nhiều năm liền ông làm Giám đốc Trung tâm. Ông được xem là chuyên gia hàng đầu trên lĩnh vực Hóa hữu cơ của Việt Nam với những công trình nghiên cứu tiêu biểu về các sản phẩm liên quan đến vật liệu Polyme và Compozit.

Ông trẻ hơn nhiều so với tuổi cận kề tám mươi của mình. Ông nói năng nhẹ nhàng, đi lại nhanh nhẹn. Đặc biệt là trí nhớ, tư duy vẫn rất mạch lạc và minh mẫn. Mặc dù nghỉ hưu đã nhiều năm, nhưng hàng ngày GS Diệu vẫn hàng ngày tới Trung tâm làm việc. Ông tham gia nhiều công trình khoa học, hướng dẫn nghiên cứu sinh; tra cứu, hiệu đính các tài liệu khoa học. Ông vẫn miệt mài, tận tụy và đam mê như thuổ mới bước vào Trung tâm này. Hiện nay GS.TSKH Trần Vĩnh Diệu vẫn là Tổng Biên tập Tạp chí Hóa học của Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam.

Tại căn phòng làm việc nhỏ nhắn, chứa đầy sách, tạp chí và các tập tài liệu được xắp xếp một cách ngăn nắp, gọn gàng của mình, GS Trần Vĩnh Diệu đã kể cho chúng tôi về quá trình nghiên cứu các vật liệu Polyme và Compozit của Trung tâm cũng như việc áp dụng những nghiên cứu liên quan đến hai loại vật liệu đó vào phục vụ đời sống kinh tế xã hội, như công trình xây dựng mái vòm máy bay chiến đấu, hệ thống mục tiêu bay, cột đèn báo hiệu giao thông, bốt điện thoại, nội thất ô tô, ghế trẻ em dành cho trẻ từ 3-6 tuổi làm bằng vật liệu Compozit, cửa ngăn đập thủy lợi, giải phân cách giao thông, gối cầu cao su bản thép…

Ông bảo rằng, cho đến nay, công trình mà ông tâm đắc nhất vẫn là “Nghiên cứu công thức keo kết cấu từ nhựa êpoxy và công nghệ dán các loại đá quý phục vụ công trình Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh”. Đây không chỉ đơn thuần là công trình khoa học có ý nghĩa to lớn về chính trị mà nó còn là sự kết tinh- hợp lực của ông với người vợ yêu  quý của mình - PGS. TS. Lê Thị Phái.

“Với công nghệ hiện nay việc tìm ra một loại keo để kết dính những mảnh đá nhỏ như bàn tay thành tấm đá lớn có lẽ không khó. Nhưng vào những năm 1974-­1975, trình độ khoa học công nghệ của ta còn nghèo nàn lạc hậu, thì việc sáng tạo ra loại keo dán đặc biệt, có khả năng kết dính cao, đủ sức chống chọi với thiên nhiên là việc không hề đơn giản”- GS Diệu nói.

Với tình cảm tha thiết dành cho Chủ tịch Hồ Chí Minh, với lòng yêu nghề, vợ chồng GS. Trần Vĩnh Diệu cùng những cộng sự của mình đã thành công: sau 4 tháng ròng rã nghiên cứu, săn tìm đá đỏ phù hợp, cắt thành từng mảnh nhỏ và đã dán hơn 4.000 mảnh đá nhỏ li ti thành 96 tấm đá lớ. Kết quả là hình ảnh lá cờ búa liềm và quốc kỳ bằng đá với diện tích 30m2 đã hiện ra trên Lăng Bác vào đúng ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước 30­-4­-1975.

Rồi GS Trần Vĩnh Diệu còn kể rằng, có một công trình nữa mà ông cũng rất tâm đắc là chế tạo sơn êpoxy chịu được ăn mòn của thực phẩm để bảo vệ các xitec đường sắt chuyên chở nước mắm từ Nam ra Bắc. Trước đây, khi chở nước mắm người ta thường dùng can nhựa nên dễ bị vỡ trong quá trình vận chuyển, dẫn đến hao hụt, tốn kém và làm hỏng phương tiện. “Công trình của chúng tôi được đưa vào ứng dụng thành công đã giúp cho việc vận chuyển được thực hiện dễ dàng, hiệu quả cao. Về sau công nghệ này được chuyển giao cho Nhà máy cơ khí Nội thương, đồng thời còn được sử dụng để bảo vệ các bồn chứa của Công ty rượu vang Thăng Long”- ông Diệu nói. “Đây cũng là công trình ông cũng làm với vợ mình?”- tôi tò mò. Ông ngồi im, mắt nhìn vào khoảng không như vô định. Rồi ông nói nhỏ: “Đúng rồi!”. Dừng một lúc ông thở dài: “Vậy mà nhà tôi đã ra đi được gần chục năm rồi. Tôi cứ ngỡ như cô ấy vừa mới đi công tác xa”. 

Hôm ấy  GS Diệu còn kể cho tôi nghe về nhiều công trình nghiên cứu mà ông và các đồng nghiệp đã hoàn thành. Đó là 17 vòm compozit che máy bay ở các sân bay quân sự; công trình ứng dụng vật liệu compozit làm dải phân cách, hành lang an toàn trên đường Thanh Niên, Nghi Tàm…; công trình gối cầu cao su cốt bản thép phục vụ cho những cây cầu bê tông cốt thép; công trình “Nghiên cứu và triển khai vật liệu polyme gia cường bằng sợi thực vật để tạo ra thế hệ vật liệu mới thân thiện với môi trường”…

Khoa học- tình yêu và đam mê lớn nhất của cuộc đời

“Khoa học- tình yêu và đam mê lớn nhất của đời tôi”- GS TSKH Trần Vĩnh Diệu đã nói với tôi như vậy trong cuộc trò chuyện của mình. Ông bảo, không phải ông không có cơ hội làm giàu. Không phải không có doanh nghiệp chèo kéo bằng lương cao và bổng lộc hậu hĩnh. Có không ít những công trình và công nghệ nếu đem ra thị trường kinh doanh, rất có thể sẽ trở thành giàu có. “Mình là nhà khoa học, được nhà nước cho đi ăn học, không thể làm khác được”- GS Trần Vĩnh Diệu lý giải vì sao gần như cả cuộc đời ông đều gắn bó với khoa học, chuyên tâm nghiên cứu về công nghệ polyme và compozit. Cho đến nay, ở tuổi gần 80, ông vẫn say mê nghiên cứu, tìm tòi.

GS Diệu tâm sự rằng, không mấy nhà khoa học chân chính nào nghĩ đến chuyện nghiên cứu khoa học để lấy thành tích, phần thưởng hay bằng khen.
GS Diệu tâm sự rằng, không mấy nhà khoa học chân chính nào nghĩ đến chuyện nghiên cứu khoa học để lấy thành tích, phần thưởng hay bằng khen.

Niềm đam mê khoa học của GS Diệu không phải ngẫu nhiên mà có.

Trần Vĩnh Diệu sinh ra và lớn lên ở xã Đức Tùng, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. “Tôi sinh ra và lớn lên ở vùng quê nghèo như vậy đã rèn cho tôi một ý chí tự lập từ nhỏ và chỉ có con đường học hành mới có thể thoát nghèo. Bố tôi là kỹ sư mỏ nhưng mất khi anh chị em chúng tôi còn nhỏ, một mình mẹ chèo chống nuôi năm người con khiến mẹ nhiều lúc bị kiệt sức, vì vậy từ nhỏ, tôi đã phải làm đủ nghề để phụ giúp mẹ: từ việc đồng áng cày cấy thuê đến phụ cắt tóc, nấu kẹo lạc, đạp máy khâu, viết khẩu hiệu thuê”- GS Diệu nhớ lại.

Tốt nghiệp phổ thông hệ 9 năm, cậu học trò Trần Vĩnh Diệu thi đậu vào khóa I Đại học Bách khoa năm 1956 và chỉ sau một thời gian, cậu đã lọt vào tốp dẫn đầu. Năm 1959, sau khi học hết 3 năm khoa Hoá hữu cơ, ông được cử đi đào tạo chuyển tiếp ở Moskva. Tại đây, ông có nhiều dịp tiếp xúc với một số chuyên gia Nga giỏi trong ngành hóa hữu cơ, con đường theo ông đến tận bây giờ như duyên nghiệp. Sẵn bản tính ham học, cần mẫn chịu khó, Trần Vĩnh Diệu luôn làm các bạn học người Nga thán phục, thầy cô giáo khen ngợi vì thi môn nào, Diệu cũng đạt điểm 5 và tốt nghiệp bằng đỏ.

Năm 1962, về nước, Trần Vĩnh Diệu vào giảng dạy tại Trường ĐH Bách khoa. Năm 1966, ông tiếp tục được cử đến Trường hóa kỹ thuật Mendeleev Moskva thực hiện đề tài nghiên cứu về một cơ chế phản ứng. Năm 1978, ông trở lại Trường hóa kỹ thuật Mendeleev (Moskva) làm luận án tiến sĩ khoa học. Năm 1982, sau hơn 20 năm học tập, giảng dạy ở trong và ngoài nước, TSKH Trần Vĩnh Diệu đã tập trung toàn bộ trí lực cho việc giảng dạy hầu hết các môn học của ngành, đặc biệt là môn hóa lý polyme. Ông đã tham gia đào tạo trên 900 kỹ sư, trực tiếp hướng dẫn 17 nghiên cứu sinh bảo vệ thành công luận án tiến sĩ. Điểm nổi bật nhất của GS Diệu là trong giảng dạy, ông luôn truyền cho học trò của mình ngọn lửa nhiệt tình, niềm đam mê với nghiên cứu khoa học.

Ghi nhận những nỗ lực của ông, ngoài rất nhiều Huân, Huy chương, giải thưởng, ngày 10-10-2011, GS. TSKH  Trần Vĩnh Diệu đã được vinh danh là Công dân ưu tú của Thủ đô. Đáp lại sự chia vui của học trò, đồng nghiệp, ông chỉ giản dị một câu nói: “Tôi mong trong thời gian tới sẽ tiếp tục được đóng góp một phần nhỏ bé để đưa khoa học công nghệ đến gần hơn với cuộc sống".